SƠNNAM
ĐẤT
GIA ĐỊNH
XƯA
nha sai viên vi tử, lại chịu lệnh các nha sai viên nguyên
đầu, lại chịu lệnh bản phủ, lại chịu lệnh quan lại nha
môn, lại chịu lệnh các sai nhân, lại chịu lệnh của người
đi săn ngang dọc, há không phải mười con dê đến chín
người chăn, nghèo khổ thất nghiệp rất là đáng thương”.
Ông cho thấy sự khốn khổ của dân xứ Đàng Trong
thời ấy. Quan lại thì chỉ trông vào bắt bớ tra hỏi mà lấy
lộc, khiến của dân càng hao. Có rất nhiều dân “lậu”,
người thì trốn thuế mà phải đi lang thang, người thì vì
đói rét mà phải xiêu tán, nhưng chúa Nguyễn cứ ghi vào
sổ bắt thu thuế tất cả, dân không chịu nổi.
(1)
Chúa Nguyễn lại phong kiến hủ bại đến cực đoan:
chỉ tin dùng những người thuộc họ mình, huyện mình
và xứ mình mà thôi (Họ Nguyễn, huyện Tống Sơn, xứ
Thanh Hóa). Chức vụ trọng yếu chỉ giao cho thành phần
thân thuộc kể trên. Người quê ở Thuận Hóa, Quảng Nam
là dân “trăm họ”, chỉ làm chức vụ nhỏ, con cháu không
được miễn thuế, sưu.
Việc học hành thi cử không được chú ý. Chiến tranh
liên miên giữa Trịnh và Nguyễn làm nhân dân đồ thán.
Bọn thống trị quan liêu tha hồ vơ vét đến cùng cực.
Quảng Nam được coi là giàu có, thuế đóng nặng hơn
vùng Thanh Hóa. Không kể giàu nghèo, ai cũng phải nộp
thuế sai dư (thuế thân) và vài món tiền phụ thu như tiền
tiết liệu (bắt buộc nộp vào dịp Tết), tiền thường tân (lễ
cơm mới), tiền cước mễ (để chở lúa). Lệ sáu năm một
1 Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, NXB. Khoa học xã hội Hà Nội, 1977,
tr.200.