29
lần duyệt tuyển lớn, ba năm một lần duyệt tuyển nhỏ để
kiểm tra dân số, cứ mỗi lần như vậy thì quan trên xuống
tận địa phương làm việc hàng tháng, quy định số thuế
phải nộp tùy theo hạng dân, một kiểu đóng thuế khoán
cho từng xã. Mỗi lần duyệt tuyển, các xã còn phải đóng
thêm các khoản tiền để các quan chia nhau xài: tiền giữ
cửa trường, tiền trình diện quan.
Khi được bổ dụng, mỗi viên chức lớn nhỏ đều phải
nộp lễ thượng tiến (cho chúa), nội lễ (cho nội cung),
tiền lãnh bằng, tiền ngụ lộc (cho các quan), tiền đóng
ấn, tiền trầu. Đến như người có ruộng, sau khi nộp lúa
xong, còn phải góp thêm phên tre làm bồ đựng lúa, số
phên được quy định quá cao, ngoài mức cần dùng thực
sự. Bởi vậy, có thể nộp tiền mặt thay cho phên để các
quan và bộ hạ chia tiền đó theo cấp bậc mà tiêu xài, thay
cho tiền lương, lại còn buộc các xã phải nộp tiền khoán
khố để sửa kho khi hư hỏng. Luật lệ đời chúa Nguyễn
vặt vãnh, nhỏ nhen để vơ vét không chừa một thứ gì dù
lớn dù nhỏ, nhiều khi tới mức vô lý, tức cười.
Kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, năng suất cây trồng
thấp, dân thêm đông thì diện tích bình quân đầu người
lại thâu hẹp, người lao động thiếu đất cày cấy. Lao động
làm thuê trong nông nghiệp trở nên rẻ mạt.
Việc mua bán trong xứ thêm đình đốn vì chính sách
bế quan tỏa cảng, ức thương của chúa Nguyễn. Quan lại
bức hiếp, ăn hối lộ của giới chuyên buôn bán ở Hội An,
tích lũy để sắm vàng bạc, ngọc ngà, ruộng vườn, hoặc
để chôn giấu đem theo dưới mộ khi chết.