343
ở Cù lao Phố. Bài phú Cổ Gia Định, ghi lại: “Cắc cớ
chợ Lò Rèn, nghe lạc chạc nhà Ban (Lỗ Ban) đánh búa”,
“Hằng thấy kẻ hào hùng xốc ốc, nồng nàn kẻ ở Lò Vôi”,
“Xóm Cối xấy làm lạc chạc, chồng đục họng, vợ trổ tay”,
“Trong Cầu Đường chuối ngót ngọt ngon, đủ đường cát,
đường hạ, đường phèn, đường phổi”, “Ngoài xóm Bột
phong tô trắng dã, những bột mì, bột lọc, bột đậu, bột
khoai”
.
(1)
Chợ Lớn tập trung nhiều chùa chiền của Hoa
kiều với lễ lạc, cúng tế riêng biệt.
Sống rời rạc ở thôn quê, cưới vợ Việt hay vợ Khơme
thì người Hoa kiều lần hồi trở thành người Việt. Họ làm
rẫy, buôn bán hàng xép, khẩn đất, cho vay rồi lên trung
nông, điền chủ, hương chức, hội tề, cai tổng. Nhưng nếu
sống tập trung ở chợ phố với nghề mua bán và tiểu công
nghệ thì họ kết hợp chặt chẽ, tạo một thế giới riêng,
bưng bít. Từ hồi các chúa Nguyễn mãi đến khi Pháp xâm
chiếm, bước đầu của người Hoa ở Chợ Lớn, ở thị xã, chợ
làng lớn nhỏ vẫn nằm vào trọng tâm cất chùa miếu. Đáng
chú ý chùa Ông Bổn tiêu biểu cho óc bá quyền của thời
phong kiến nhà Minh.
(2)
Trịnh Hòa, nhà hàng hải Trung
1 Lần hồi, đến đời Tự Đức, vùng Chợ Lớn thêm nghề: xóm Giá, xóm
Dầu (ép dầu phộng), xóm Lò Bún, xóm Te, xóm Rớ (đánh cá), xóm
Lò Siêu, Rẫy Cải, Ụ Ghe...
2 Tham khảo bài “Tàu thuyền” của Sử Đức Bân. Báo ảnh Trung Quốc
số 5 năm 1976 và Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa đã dẫn, trang
132 và 135. Theo G.Coedès, les Etats hinhân douisés d’Indochine et
d’Indonésie,
E. de Boccare. Paris, 1948, số thuyền to (bảo thuyền) là
62 chiếc, có thể đi theo hạm đội này 37.000 người. Trịnh Hòa chết
năm 1435, sau đó, kế hoạch mở mang về phía biển chấm dứt.