419
Đến năm 1940, Sài Gòn - Chợ Lớn lên đến
459.153 người.
(1)
Từ 1915 trở về trước, người Hoa ít hơn người Việt
ở khu vực Chợ Lớn, từ năm 1916, người Hoa đông đảo
hơn. Người Pháp ở Sài Gòn gồm đa số quân nhân. Năm
1909, Sài Gòn có 465 Ấn kiều, toàn Nam Bộ kể luôn
nam nữ trên 15 tuổi là 2.975.838.
Theo kế hoạch của Đu-me soạn thảo từ trước rồi triển
khai, nhiều chặng kinh xáng, kinh đào tay mở thêm, chú
trọng miền đất rộng người thưa phía Hậu Giang để tạo
ra vựa lúa xuất khẩu. Mỗi thân hào nhân sĩ đều được
tên Đu-me cấp cho từng mảnh đất ruộng 1.000 ha, nếu
họ biết chạy chọt.
Đến năm 1929, số kinh đào xáng và đào tay dài đến
1.664 km. Kinh đào giúp vận tải, giao thông, đồng thời
giải quyết phần nào kế hoạch thủy lợi. Chủ điền người
Pháp hưởng qui chế riêng, lập làng xã, tá điền thuộc
vào loại làm cố nông (engagé) như phu ở vườn cao su.
Năm 1912, thực dân khoe khoang có 300 người Pháp
mà đã trưng khẩn đến 247.417 ha đất ruộng.
(2)
Năm
1908, hoàn thành hệ thống kinh đào Ngã Bảy, lập quận
1 Tham khảo André Baudrit. Guide historique des rues de Sài Gòn,
SILI Sài Gòn, 1943 với bảng thống kê dân số từ 1907 đến 1941.
2 Điền Rémy Gressier, gọi điền Ông Kho (kho lúa to) ở Sóc Trăng và
Cần Thơ phát triển từ những năm đầu thế kỷ đến khoảng những năm
1940 chiếm 28.670 héc-ta ruộng với hơn 3.000 hộ tá điền. Có riêng
2 nhà máy xay lúa, mỗi ngày ra 300 tấn gạo, thâu dụng 150 thợ. Sức
trọng tải của đội xà-lan trong điền là 2.700 tấn. Đồn điền Pháp thường
mướn lính Pháp giải ngũ làm giám thị, xưng cấp bậc hạ sĩ, caporal,
nôm na là cặp rằng.