Hưng Đạo vương nói:
- Thần xin cử một đạo binh lên tăng viện cho các cửa ải để làm chậm
bước tiến quân của giặc, mặt khác thông báo cho những vùng có thể giặc đi
qua, đưa dân tạm lánh đi nơi khác, cất giấu hết thóc lúa trâu bò gà lợn để
giặc không thể cướp bóc được. Khi chúng đã vào sâu, ta cho quân chặn
đường tiếp lương thì mấy vạn quân binh của chúng sẽ thành ma đói cả.
Thái Tông nghe theo kế ấy, lệnh cho Hưng Đạo vương tiến binh. Lúc
tan triều, các tướng hỏi Lê Tần vì sao biết thái sư không nhận quyền tiết
chế. Tần nói:
- Các ông chỉ biết chỗ dở của thái sư là không biết dàn binh phá trận
mà không thấy chỗ hay của thái sư không tham quyền cố vị, việc không
cáng đáng được, thành thực không nhận, thế lại chả hơn lắm kẻ chẳng hiểu
cái mù tịt gì nhưng cứ tranh giành làm hỏng việc hay sao? Vả lại thái sư
đánh thành cướp đất thì kém nhưng việc đắp móng xây nền, cất nhắc hiền
tài đã ai sánh kịp. Triều Trần ta không có ông ấy liệu được như ngày nay?
Người cẩn trọng như thế không thể mạo hiểm mà nhận quyền tiết chế.
Mọi người đều cho lời của Lê Tần là rất chí lý. Hôm sau Hưng Đạo
vương phân công các tướng: Đội thứ nhất, Trần Khánh Dư lĩnh một nghìn
quân lên tăng viện cho ải Yên Khâu chỉ cần giữ chân giặc trong năm ngày
rồi tản vào rừng, khi đại quân của chúng đã qua thì chẹn đường không cho
vận chuyển lương thảo. Đội thứ nhì, Lê Tần mang thuỷ binh lên trấn giữ bờ
Nam ngã ba Bạch Hạc, khi giặc đến lập tức chặn đánh tiêu hao chúng rồi
xuôi theo sông Lô đưa quân về Bình Lệ nguyên tăng cường cho trận tuyến
của nhà vua và thái tử. Đội thứ ba, Hoàng thượng, thái tử Hoảng, Trần
Khuê Kình, Bùi Khâm, Trung Thành vương đem ba vạn quân bày trận ở
cánh đồng Bình Lệ đợi giặc. Đội thứ tư, Vương Lâm mang một vạn quân,
năm trăm thuyền chiến chờ sẵn trên sông Nguyệt Đức, phòng tình huống
bất trắc. Đội thứ năm, Thái sư Trần Thủ Độ, Nhân Đạo vương thống lĩnh
toàn bộ hậu quân, tuỳ cơ tiếp ứng cho các đạo khi cần. Hưng Đạo vương