Trong suốt những năm 1990, khi nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của nhà
sản xuất vào lúc cao điểm, người ta ước tính có khoảng 4.500 tấn vàng đã
được các ngân hàng trung ương đưa ra thị trường trước khi đạt mức cao
nhất là 4.940 tấn (theo ước tính từ Virtual Metals Group) vào gần cuối năm
2000, xấp xỉ một phần sáu tổng lượng vàng dự trữ. Một số nhà lý luận cho
rằng số lượng vàng được đưa ra nằm trong kế hoạch nhằm giảm giá vàng có
thể lên cao tới bốn lần. Điều kỳ lạ là nước Đức đã cho chính quyền của
Tổng thống Clinton vay toàn bộ số vàng dự trữ của mình trong một nỗ lực
bất thành nhằm giữ giá vàng ở mức thấp (xem thêm điều này ở Chương 10,
“Vàng: Những chuyện thần bí và thực tế”).
Vào thời gian này, khi các tỷ lệ tăng do có tin đồn các ngân hàng trung
ương rút vàng khỏi thị trường đã khiến cho một số ngân hàng trữ vàng có
giá trị tín dụng thấp bắt đầu lo ngại rằng sẽ không thể tìm đủ mặt hàng để
bù đắp cho các khoản cho vay của mình. Trong nhiều trường hợp, mô hình
được một số thể chế chấp nhận là cho các công ty khai mỏ (những công ty
đang cấp vốn cho khoản đầu tư của họ) vay vàng dài hạn (tới 10 hoặc thậm
chí 15 năm) trong khi lại vay vàng từ các ngân hàng trung ương hoặc thị
trường, vốn chỉ sẵn sàng cho vay vàng trong thời hạn dưới sáu tháng. Tuy
nhiên, đường cong lãi suất vàng sẽ dốc đến mức được xem là một rủi ro có
thể chấp nhận được.
ĐƯỜNG CONG LÃI SUẤT
Hình dáng của đường cong lãi suất đã thay đổi chút ít trong nhiều năm,
có thể xem trong Hình 5-1 khi đường kẻ đi lên trong khoảng thời gian từ
năm thứ nhất đến năm thứ 10. Mặc dù vậy, điều đã thay đổi là trong một vài
năm qua là toàn bộ đường cong, và vì vậy nghĩa là toàn bộ lãi suất, đã giảm
mỗi năm.