năm 1990, họ không quan tâm tới bất kỳ cấu trúc nào suôn sẻ hơn song lại
muốn lựa chọn đòn bẩy vay nợ nếu có thể; họ là bên bán và muốn hiện thực
khoản lợi tức lớn nhất.
Vấn đề là không có gì quan trọng trong cách đánh giá hiệu quả rủi ro
đối với nhiều trong số những cơ sở này và trong một số hoàn cảnh nhất
định, họ không, hoặc không thể, kiểm định sổ sách của mình để xem điều gì
sẽ xảy ra trong các bối cảnh khác nhau. Kết quả là có sự lo lắng đáng kể khi
thị trường vàng bắt đầu hồi phục, đầu tiên là thời gian cuối năm 1999 và
những năm sau đó. Tôi đã từng giúp một công ty Australia đánh giá các
mua bán phòng ngừa rủi ro của mình, có cấp độ kết nối cao giữa vàng giao
ngay và các tỷ lệ lãi suất vàng. Ví dụ, nếu vàng tăng giá, điều này sẽ làm
tăng tỷ lệ lãi suất mà họ phải thanh toán để vay vàng. Vì vậy, việc tăng giá
nhanh đột ngột sẽ dẫn tới tình trạng khó khăn và khó kiểm soát đối với nhà
sản xuất này. Vì vậy, họ tái cơ cấu sổ sách của mình để tránh gặp phải tình
huống bất ngờ này.
Họ không phải là trường hợp duy nhất trong hoạt động sổ sách đầu tư
này; trong hầu hết trường hợp, các nhà sản xuất độc lập nhỏ bị các công ty
hải ngoại lớn tiếp quản.
Yêu cầu của các nhà sản xuất vàng tại thời điểm này đã phải chứng kiến
một giai đoạn đổi mới lớn trong loại cấu trúc quyền chọn có thể được ký
kết. Trước nhất, chỉ có các quyền chọn mua và bán thông thường; và sau đó
sớm có thêm các quyền chọn đặt rào, các rào cản window và anniversary,
các số, các lượng tử, v.v… Phần lớn những khoản này được đưa ra nhằm
đáp ứng các yêu cầu trả lương của ngành công nghiệp khai mỏ, mặc dù
nhiều ý kiến được du nhập từ các thị trường ngoại hối và thu nhập cố định.