164
D Ấ U X Ư A
Việc hệ thống hóa cách đặt tên, rất phức tạp và chi tiết, cho
con trai, con gái, thay đổi theo dòng chính, dòng phụ, từng chức
tước, từng thứ bậc, từng hệ phái, từng thế hệ, từng giai đoạn
trong đời, từng quan hệ máu mủ xa hay gần, là một cách quản lý
nhân sự tinh vi, vừa nâng cao địa vị của người có quyền hành, vừa
xác nhận sự chính thống, xác nhận địa vị, vừa làm giảm sự tranh
cãi giữa mọi người trong gia đình, vừa phân biệt thành phần dân
dã với những người thuộc hoàng tộc, vừa truyền lại những ngụ
ý, những mong đợi của tiền nhân đối với con cháu, phụ nữ trong
hoàng tộc thì như ngọc như ngà, đàn ông trong hoàng tộc thì anh
minh, sáng suốt.
Hệ thống tên, có thể nói, tương tự như cái thẻ căn cước của mỗi
người trong hoàng tộc.
Hệ thống tên của nhà Nguyễn được cấu trúc trong những bài
thơ viết bằng chữ Hán do Minh Mạng viết ra, cho chính dòng của
mình (Đế hệ) và cho mỗi anh em của mình (Phiên hệ). Con cháu
dòng vua Gia Long là Chính hệ, Tiền hệ là con cháu các chúa
Nguyễn về trước.
Tông Thất, tông là dòng họ, thất là nhà, sau này vì kỵ húy chữ
“Miên Tông” mà trở thành Tôn Thất, là từ chỉ chung những người
cùng họ với nhà vua. Tông nữ, sau cũng đổi thành Tôn nữ, dùng
để chỉ con gái trong họ nhà vua. Các con vua thì gọi là “mệ”.
Gốc tích của mỗi tên có từ chữ Hán, cho nên muốn hiểu các tên
thì phải... biết chữ Hán.
Bài thơ dùng cho dòng của Minh Mạng có tên
Đế hệ thi gồm có
bốn câu hai mươi chữ, viết theo chữ quốc ngữ, như sau: