171
VUA DUY TÂN VÀ MỘT KẾT CỤC BI THẢM
Nhưng di chiếu của Tự Đức lại đồng nghĩa với bản án tử hình
cho người con nuôi lớn nhất của ông. Ba ngày sau khi Tự Đức qua
đời năm 1883, hai quan đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết, thực chất nắm tất cả quyền bính trong tay, đổi di chúc,
phế bỏ Dục Đức, thay vào đó lập Nguyễn Phúc Hồng Dật, một
người em của Tự Đức, hàng chú của Dục Đức lên ngôi. Hồng Dật
trở thành hoàng đế thứ sáu, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
Dục Đức, hoàng đế thứ năm, bị giam trong học đường, rồi bị bỏ
đói trong ngục cho đến chết. Dân gọi ông là “Vua ba ngày”.
Trong cùng năm đó, dưới quyền lực của Nguyễn Văn Tường
và Tôn Thất Thuyết, triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước Quý Mùi
ngày 23.07.1883 bởi Harmand, De Champeaux, Trần Đình Túc và
Nguyễn Trọng Hợp.
Vua Hiệp Hòa có ý muốn chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và loại
trừ hai quan đại thần lộng quyền. Nhưng, Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết đã ra tay trước. Với sự đồng ý của bà Từ Dũ, mẹ
vua Tự Đức, vua Hiệp Hòa bị “tam ban trào điển“, nhà vua chọn
uống chén thuốc độc chết, Tường và Thuyết đưa Dưỡng Thiện lên
ngôi. Quan phụ chánh thứ ba, Trần Tiễn Thành, vì không đồng ý
với Tường và Thuyết cũng bị giết chết.
Dưỡng Thiện, tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con nuôi thứ ba
của Tự Đức, lên ngôi hoàng đế với niên hiệu là Kiến Phúc, nhưng
thật sự hoàn toàn không có quyền lực. Sau sáu tháng trị vì, ngày
31.7.1884 vua Kiến Phúc mất một cách khó hiểu, hưởng dương
được có 16 tuổi. Có tài liệu cho rằng vua Kiến Phúc bị Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết bằng thuốc độc. Ba vị vua bất