229
VUA DUY TÂN VÀ MỘT KẾT CỤC BI THẢM
Blum (lần thứ hai), Daladier (lần thứ ba), rồi chính quyền cuối
cùng do Paul Reynaud lãnh đạo.
Năm 1939, Lebrun có thể rút lui, nhưng trước tình hình không
thể tránh khỏi một cuộc chiến tranh tàn khốc đang diễn ra, Lebrun
được bầu làm tổng thống thêm một nhiệm kỳ thứ hai, cũng vì ông
“dễ bảo”.
Ngày 10 tháng sáu 1940 Lebrun dời chính phủ về Tours và
tuyên bố bỏ ngỏ thủ đô Paris.
Trước tình thế đội quân của tướng Weygand đã bị tiêu diệt hết
gần ba mươi sư đoàn (trận đánh Weygand) và khi nước Ý đã tuyên
bố khai chiến với Pháp cùng ngày 10 tháng sáu 1940, thì chính
phủ Paul Raynaud sợ trách nhiệm nặng nề trước lịch sử, xin từ
chức vào ngày 17 tháng sáu 1940.
Tổng thống Albert Lebrun bèn mời thống chế Pétain tổ chức
một chính phủ mới và sửa soạn xin đầu hàng quân Đức quốc xã
(Armistice 1940) theo đề nghị của tướng Weygand.
Henri Philippe Pétain, xuất thân từ một gia đình nông dân
trong tầm mức gọi là khiêm tốn, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1856
tại Cauchy-la-Tour thuộc vùng Pas-de-Calais ở miền Bắcnước Pháp.
Ông học tại trường nhà dòng les Dominicains, trước khi thi đậu
vào trường huấn luyện sĩ quan Saint-Cyr năm 1876. Cuộc đời chiến
binh của Pétain sẽ không có gì đáng kể, nếu không có trận Verdun.
Trên cơ bản, Pétain khi là phó giáo sư tại trường Đại học Chiến
tranh (École de guerre) năm 1904, bảo vệ lý thuyết sử dụng chiến
tranh bảo vệ và chiến tranh phòng thủ với việc xây dựng những
chiến lũy cố định, Pétain không chấp nhận lý thuyết chiến tranh
toàn diện cũng như lý thuyết chiến tranh cơ động với những binh