chợt khám phá ra rằng, khi được thả chạy trong các mê cung,
chúng chạy nhanh hơn, ít sai sót hơn so với những con chuột chỉ
sống trong phòng thí nghiệm. Và những con chuột này được xem
là sống trong “môi trường thuận lợi”.
Vào những năm 60 của thế kỷ 20, Mark R. Rosenzweig, giáo sư
tâm lý học Đại học California tại Berkeley, công bố những kết quả
nghiên cứu cho thấy những con chuột được nuôi dưỡng trong
môi trường thuận lợi có bộ não nặng hơn, vỏ não dày hơn tại một
số vùng nhất định so với những con chuột được nuôi lẻ loi trong
lồng.
Vào những năm 70, giáo sư William Greenough thuộc khoa Tâm
lý học Đại học Illinois tại Urbana-Champaign, đã tiếp tục nghiên
cứu những khía cạnh khác biệt của môi trường sống có thể tác
động đến hành vi và sự phát triển của não. Ông đã tạo ra ba điều
kiện sống khác nhau: một con chuột sống lẻ loi, bị giam cầm
trong lồng nhỏ; một con chuột sống trong lồng lớn với một số con
chuột khác; và một con chuột sống cùng các con chuột khác trong
thế giới phong phú, vui nhộn chẳng khác gì Disneyland thu nhỏ
với vô số đồ chơi, thanh trượt, bánh xe.
Chắc bạn cũng đoán được những con chuột sống trong thế giới
Disneyland đó học cách chạy trong mê cung nhanh chóng, chính
xác hơn.
Nghiên cứu của Rosenzweig là một trong những bằng chứng cốt
lõi khiến nhiều người điên cuồng tìm cách làm cho não của trẻ to
hơn. Người ta cứ nghĩ rằng nếu những con chuột sống trong môi
trường thuận lợi sẽ chạy nhảy nhanh hơn, chính xác hơn những
con chuột bị giam hãm trong lồng thì trẻ em cũng thế. Nếu trẻ
được nuôi dưỡng trong môi trường cực kỳ thuận lợi, chắc chắn trẻ
sẽ vượt xa các trẻ lớn lên trong môi trường bình thường. Tuy vậy,
có hai điểm khiến cho sự so sánh này không chính xác.
Thứ nhất, đời sống của trẻ nói chung không hề giống những con
chuột cô độc, lớn lên trong những cái chuồng bé tí và nhàm chán
(ngoại trừ những trẻ em có hoàn cảnh sống cực kỳ tệ hại). Nghĩa
là, người ta không nuôi trẻ trong tủ kính mà trong một môi
trường mở tự nhiên, nơi trẻ có thể tiếp xúc đồ chơi và mọi người
34