Tân, được dân chúng truyền tụng qua câu "đày vua không Khả, đào mả
không Bài". Ông Bài, tức Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư Bộ lại, người đạo
gốc, cũng như họ Ngô nhà tôi, là cha đỡ đầu của tôi, đồng thời là cha vợ
của người anh cả tôi, Ngô Đình Khôi.
Ông bà cụ tôi sinh được cả thảy chín người con, sáu trai, ba gái, tôi đứng
vào hàng thứ tư, sau người anh cả làm Tổng đốc, người anh thứ hai làm
Giám mục, một bà chị thứ ba đã mất.
Gia đình tôi theo đạo dòng, tổ tiên tôi đã có người tử vì đạo dưới triều vua
Tự Đức. Sống trong không khí đạo giáo, khắc khổ từ nhỏ, hồi 15 tuổi ở nhà
dòng tôi đã có lần tự nguyện: một là tốt hai là xấu, đối với tôi con người
không thể khác hơn. Ngày nay tôi vẫn giữ vững quan niệm: Một là "có tất
cả", hai là "không gì hết", chứ không có sự lưng chừng ở giữa. Tôi đã chịu
ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo cộng với Thiên Chúa giáo trong đời
sống, tôi chủ trương phải quyết liệt tuyệt đối.
Khi ông cụ tôi cáo quan về, tôi đến ở nhà người cha đỡ đầu, ông Nguyễn
Hữu Bài, bấy giờ đang làm Thượng thư Bộ lại, tôi bắt đầu vào trường Quốc
học Huế, nơi 10 năm trước, ông Hồ Chí Minh đã theo học. Sau đó, tôi ra
học trường Hậu bổ ở Huế, được tiếng là học trò giỏi. Năm 1921, tôi ra
trường đậu đầu trong số 20 thí sinh được bổ làm tri huyện.
Năm 1929, vào lúc 28 tuổi, tôi được thăng chức Tuần vũ ở Phan Thiết, nơi
8 năm về trước ông Hồ Chí Minh đã dạy học. Cũng tại đây tôi đã đương
đầu với đám thanh niên có những tư tưởng mới du nhập từ Hương Cảng,
Quảng Đông và Sài Gòn đến. Đó là những phần tử cách mạng quá khích và
cộng sản. Trong thời gian cầm quyền cai trị, tôi đã được tiếng là liêm khiết
cương trực. Năm 1922, ông Bảo Đại ở Pháp về, muốn thay đổi bộ mặt triều
đình quan lại cũ mời tôi về Huế giữ chức Lại bộ Thượng thơ. Vì chủ trương