khấu. “Thật chứ?”
“Cậu ấy ổn. Chỉ lo lắng một tẹo, nhưng ổn. Tối nay cậu ấy sẽ
làm mọi người choáng váng.”
Cô thoáng thấy Julian trong một phần giây trước khi một trợ lý
chương trình, người đang chăm chú nghe qua tai nghe, gật đầu và
vỗ nhẹ vào vai Julian một cái. Anh và các bạn trong ban nhạc nhanh
chóng vào chỗ trước các nhạc cụ của họ. Họ đứng yên phăng phắc
đằng sau tấm màn che, và Brooke nghe thấy Jimmy Kimmel đang
bông đùa với khán giả, giữ cho lòng nhiệt tình của họ khỏi nguội đi
trong mục quảng cáo xen giữa chừng. Người giám sát trong cánh gà
đang đếm ngược từ hai mươi giây đổ về, và bàn tay của Julian nắm
trên micro đang run rẩy thấy rõ.
Đúng lúc cô nghĩ mình không thể chịu thêm được nữa thì
Jimmy Kimmel xướng tên Julian và tấm màn cuộn cao lên, để lộ đám
khán giả đông đặc và ồn ào, Brooke băn khoăn liệu Julian có đủ sức
làm cho người ta nghe thấy giọng anh hay không. Nhưng rồi tay
trống bắt đầu với những âm tap-tap-tap nhẹ nhàng, tay ghi ta chơi
vài nốt nhạc buồn, và Julian kề micro vào môi, bắt đầu hát những ca
từ đã làm anh nổi tiếng. Giọng nam trung của anh vang vọng khắp
sân vận động, làm cho khán giả gần như tức thì im lặng; với Brooke
điều này chẳng khác nào một cú điện giật.
Cô hồi tưởng lại lần đầu tiên cô nghe Julian biểu diễn bài “For
the Lost” ở quán bar Nick đêm thứ Ba êm dịu đó. Anh đã hát bài hát
yêu thích của Brooke và cả hai hoặc ba bài hát mà anh sáng tác,
nhưng khi lần đầu tiên anh hát bài hát vừa mới sáng tác thì Brooke
sởn cả da gà. Từ đó trở đi, cô đã bao lần đi xem anh biểu diễn,
nhưng lúc này cô vẫn bị bất ngờ khi nghe chồng cô hát trải lòng anh
ra với hàng triệu khán giả.