rằng mọi cái có vẻ đều ổn. Có tuyệt không cơ chứ?”
Brooke lại nghe tiếng vô tuyến vọng đến từ đầu dây đằng kia,
lần này khẽ hơn, nhưng cô vẫn nghe được tiếng cười không lẫn vào
đâu được của Oprah.
“Tuyệt á?” Brooke vừa hỏi vừa đặt con dao nhựa xuống. “Con
không chắc đó là từ ngữ con định dùng. Họ vừa mới hẹn hò được
sáu tháng thôi mà. Họ còn chưa kết hôn. Thậm chí họ còn chưa
chung sống với nhau.”
“Con trở nên đoan trang như thế từ khi nào vậy, con yêu của
mẹ?” bà Green vừa hỏi vừa tặc lưỡi. “Nếu con có nói với mẹ rằng
đứa con gái ba mươi tuổi, lịch sự, được học hành tử tế của mẹ lại là
một người cổ hủ như vậy thì mẹ cũng chẳng thể tin vào điều đó
được.”
“Mẹ à, con không chắc từ ‘cổ hủ’ là chính xác để chỉ những
người cố gắng hạn chế sinh con cái trong những mối quan hệ tiền
hôn nhân đâu nhé.”
“Ôi, Brooke, hãy bớt căng thẳng đi một chút. Không phải ai
cũng có thể - hoặc nên - kết hôn khi hai mươi lăm tuổi. Randy ba
mươi tám và Michelle gần bốn mươi rồi. Có thật con nghĩ rằng thời
này vẫn còn có người quan tâm đến mấy thứ giấy tờ hôn thú vớ vẩn
đó không đấy? Bây giờ tất cả chúng ta đều phải biết quá rõ rằng
điều đó hầu như chẳng nghĩa lý gì nữa.”
Đầu óc Brooke xoay quanh một loạt ý nghĩ: vụ ly dị của cha mẹ
cô gần mười năm trước đây, khi cha bỏ mẹ để đi theo cô y tá của
trường trung học nơi họ cùng dạy học; cái cách mà mẹ ấn cô ngồi
xuống sau khi cô đính hôn với Julian và nói vói cô rằng phụ nữ ngày
nay có thể hoàn toàn hạnh phúc mà không cần kết hôn; nỗi niềm
mong mỏi thiết thaẹ cô rằng Brooke nên chờ đến khi cô có sự nghiệp