cánh hai mươi phút. Nôrikô xem đồng hồ tay, rồi đưa mắt nhìn lên tường:
cả hai cái đồng hồ đều chỉ giờ như nhau: ba giờ kém mười lăm. Bắt đầu lo
lắng thật sự, Nôrikô ra đứng ở cửa. Xa lộ hôm nay vắng, đi mất một giờ là
cùng. Vậy thì tại sao đến bây giờ anh vẫn chưa đến?
Loa phóng thanh cho biết rằng giờ ghi tên đi chuyến máy bay Sappôrô cất
cánh lúc mười lăm giờ mười phút đã sắp kết thúc. Nôrikô nhìn lên đồng hồ
treo tường một lần nữa: đúng ba giờ.
Vừa lúc ấy trước thềm có một chiếc tắc-xi phanh rít lại, và từ trên xe một
người đàn ông mặc măng-tô màu xám thẫm bước xuống. Naôê.
"May quá!" - Nôrikô thở phào.
Naôê trả tiền cho người lái tắc-xi, đóng sập của xe lại và bước vào phòng
đợi. Trống ngực Nôrikô đập thình thịch: lần này hạnh phúc không tuột khỏi
tay cô nữa, ước mơ đang trở thành sự thật. Naôê vừa đưa mắt nhìn quanh
vừa bước nhanh đến quầy ghi tên. Nôrikô chạy lại cạnh anh.
- Sao anh muộn thế?
- À em đến rồi à.
- Em lo quá... Em sợ anh không đến kịp.
- Có người gọi điện thành ra đi muộn.
Trong hành lang ra sân bay ồn ào, náo nhiệt như ngày hội, những ta áo
kimônô lộng lẫy qua lại rất vui mắt.
Nôrikô đi máy bay lần này là lần đầu; cô có cảm giác là ai cũng nhìn mình,
đâm ra luống cuống. Trong khi đó Naôê, cổ áo xốc cao lên, mắt thản nhiên
nhìn về phía trước, bước vội vã trên sàn hành lang di động.
Máy bay cất cánh chậm mười phút.
Như một đứa trẻ tò mò, Nôrikô nhổm người trên ghế, cố nhìn qua cửa sổ
máy bay. Người đàn ông đứng tuổi ngồi sát cửa sổ né sang một bên để cho
cô dễ nhìn hơn.
Thành Tôkyô ở phía dưới trông như đồ chơi, và chẳng bao lâu đã mất hút.
Sau mấy phút chiếc máy bay nghiêng hẳn sang một bên và đổi hướng đi về
phía Bắc. Dòng chữ "Không hút thuốc" đã tắt. Những khu phố của thành
phố khổng lồ đã nhường chổ cho những cánh đồng, những dãy núi. Nôrikô
thấy cái gì cũng thú vị: những con đường trông mảnh như sợi chỉ, những