nữa đến tiêm thuốc theo lời dặn của bác sĩ điều trị.
Những bệnh nhân chấn thương, thường thường cứ hai ngày đến một lần,
hôm nay cũng không phải đến. Dĩ nhiên Nôrikô tự ý cho thuốc cảm và thay
băng mà không có chỉ thị của bác sĩ trực như vậy là vi phạm điều lệ, nhưng
cô không dám quấy rầy Naôê vì những chuyện không đâu như thế. Nôrikô
biết rất rõ mình phải làm gì; vả chăng nếu cô có tự dưng nảy ra cái ý gọi
điện cho ông ta, thì chẳng qua cũng sẽ được nghe ông trả lời là: "Tốt lắm,
cứ thế mà làm".
Đến chín giờ, đèn ở các phòng bệnh nhân đều đã tắt hết, mà Naôê vẫn chưa
thấy về. Công việc có thể coi như là đã xong xuôi, cho nên Nôrikô mở một
cuốn tiểu thuyết và bắt đầu thả hồn vào cái thế giới ư cấu của một nữ văn sĩ
đang thời thượng viết về tình yêu. Kaôru mở máy thu hình, chỉnh cho máy
kêu khe khẽ, và bắt đầu theo dõi chương trình hòa nhạc. Phòng trực của nữ
y tá ở tầng ba, bên phải thang gác, các cửa sổ đều trông ra một ngõ hẻm
vắng không có lấy một bóng người qua lại. Màn cửa sổ bao giờ cũng vén ra
hai bên, và trong khoảng lở có thể nhìn thấy cảnh đô thành lấp lánh muôn
vạn ánh đèn đêm. Đến chín giờ rưỡi chương trình nhạc kết thúc. Kaôru
vươn vai ngáp dài. Cô đến bệnh viện từ sáng sớm vào lúc tám giờ, ăn trưa
xong thì đi học lớp dự bị, sau đó lại trở về bệnh viện trực đêm. Đến giờ này
cô đã mệt nhoài ra. Biết làm thế nào được? Đành phải kiên nhẫn chịu đựng
vài năm.... Nôrikô cúi đầu đọc sách, tóc rũ cả xuống tận mặt.
Kaôru tắt máy, ngồi nhìn ra cửa sổ.
- Chị ạ, tiên sinh vẫn ở ngoài tiệm rượu à?
- Không biết.
Nôrikô rời cuốn sách. Cô đọc gần hết.
- Có lẽ ta pha tí cà-phê nhỉ?
- Ờ, hay đấy.
Kaôru nhanh nhẹn đứng dậy thắp bếp ga. Ở góc phòng sau tấm màn trắng
có thể trông thấy mờ mờ một cái giường ghép đôi và hai cái tủ con. Cà phê
và chén tách đặt ở ngăn trên cùng. Kaôru lấy bình cà-phê bột không cặn và
lọ đường, đặt cả lên bàn.
- Mấy viên đường?