báo hiệu bữa cơm tối sắp sửa bắt đầu. Bây giờ chẳng có một chút gì giống như vậy.
Vẫn trên chiếc đòn kê quen thuộc, chị Ngà vừa âu yếm vuốt ve những cánh hoa vàng vừa
cười nói ríu rít. Vẻ tư lự hôm nào ngoài suối dường như đã bay xa, không còn để lại vết tích
trong tâm hồn chị. Cũng có thể đôi lúc nó trở về thấp thoáng nhưng nhanh chóng bị hòa tan
trong niềm hạnh phúc kỳ lạ chị vừa bắt gặp, niềm hạnh phúc mà nhờ nó gương mặt chị cứ
sáng lên trong bóng chiều chập choạng, hệt như có trăm ngàn ngọn nến đang cháy âm ỉ
dưới làn da trắng hồng của chị.
Chị Ngà nói với tôi đủ thứ chuyện trên đời, chuyện nọ xọ chuyện kia, đến nỗi sau đó tôi
chẳng tài nào nhớ nổi chị đã trò chuyện với tôi những gì. Ngay cả chị, có lẽ chị cũng không
nhớ. Có vẻ như chị nói để mà nói, để san sẻ bớt những niềm vui đang ngập tràn trong lòng
chị những ngày này và nếu không làm thế e rằng người chị sẽ nổ tung.
Dĩ nhiên tôi vô cùng hoan hỉ trước niềm vui mới mẻ của chị. Tai nghe chị nói, mắt nhìn chị
cười, tôi những mong rằng tất cả những biểu hiện khôn bề che giấu đó có liên quan mật
thiết đến ý định chị từng thố lộ với tôi hôm nào. Rằng chị sẽ thi vào ngành sư phạm, sẽ trở
thành cô giáo trường huyện. Rằng chị sẽ không đi đâu cả, chị sẽ về ở bên tôi, mãi mãi.
Không hiểu sao tôi luôn tin vào điều đó, cũng như tự trong thâm tâm tôi vẫn tin hoa cúc
vàng đem lại niềm vui cho tâm hồn, như chị đã từng nói trước đây và như tôi cảm nhận bây
giờ.
Giữa những ngày đẹp đẽ tuyệt vời đó, thằng Chửng anh đột nhiên báo cho tôi một tin động
trời.
Một buổi trưa, nó đứng lấp ló trước cổng rào hoa giấy ngoắt tôi ra, vẻ cấp bách.
Tôi nhảy ba bước một, chừng năm cú phóng người đã ra tới gốc me.
- Gì vậy? – tôi tò mò hỏi – Vô Bãi Cháy bắn chim hả?
Mặt Chửng anh lấm lét:
- Không phải! Chuyện này quan trọng hơn nhiều!
Bộ tịch lạ lùng của Chửng anh khiến tôi chột dạ. Tôi nhìn nó, nôn nóng: