Chị Ngà mỗi ngày một xanh xao, gầy vọt. Anh Ðiền sau một thời gian bám lẵng nhẵng theo
chị năn nỉ, thuyết phục không xong, đã bắt đầu lảng ra. Từ đó, hai người gần như không
nhìn mặt nhau nữa.
Dì Miên cũng đâm ra lầm lì, quạu quọ. Dì không còn thường xuyên ngồi trước bàn học như
trước đây nữa, mà suốt ngày cùng với chị Ngà chui vào phòng rì rầm to nhỏ.
Trong đôi mắt ngây thơ của một đứa con trai mới lớn như tôi, chị Ngà chỉ biếng ăn, buồn bã
và tiều tụy. Nhưng bà Sáu lại không nghĩ như vậy.
Một hôm bà kêu tôi lại, hỏi:
- Sao dạo này con bé Ngà xanh quá vậy cháu?
- Dạ, chỉ ốm.
Bà Sáu trầm ngâm một hồi rồi khẽ chép miệng:
- Không phải vậy đâu cháu!
Bà Sáu làm tôi thắc mắc quá chừng.
- Chứ tại sao hở bà? – Tôi tròn mắt.
Bà Sáu không trả lời thẳng câu hỏi của tôi. Mà thở dài:
- Khổ thân con bé! Oan hòn uổng tử nhập vào làm nó u mê!
Tiếng than kỳ bí và nhuộm đầy vẻ phiền não của bà khiến tôi lạnh người. Và để mặc bà ngồi
một mình trong căn nhà tuềnh toàng, trống trải với đôi mắt lúc nào cũng ngó mông ra
khoảng xa xôi như thể ngóng đợi ai, tôi lặng lẽ bỏ đi.
Những ngày này tôi chẳng biết trò chuyện với ai, trừ anh em thằng Chửng. Nhưng với anh
em nó, tôi không thể bộc bạch hết gan ruột. Nhất là với một đứa bép xép như Chửng em.
Câu chuyện của chị Ngà mà lọt vào tai nó, ngày hôm sau chắc cả
làng biết hết.
Còn những người ở quanh tôi mặt mày nếu không ủ dột thì cũng khó đăm đăm, tôi chẳng có
cách nào lại gần họ. Từ sau ngày vợ anh Ðiền đột ngột xuất hiện, chị Ngà và anh Ðiền mỗi