dẫn như thế. Cậu khuấy bình mứt giữa đồng quê thanh bình nước Ý, lũ gà
lôi bay sột soạt trong tán ôliu và vườn nho, những người lính kháng chiến
đang đào nấm trong rừng. Đó là một mùa xuân đặc biệt hào phóng, và rồi,
bom rơi xuống…
Khi Gyan còn rất nhỏ, một ngày kia anh tân binh cuối cùng của dòng
họ đã bước xuống xe buýt ở bến Kalimpong và trở về khuyết một ngón
chân. Không ai còn nhớ được ông, nhưng cuối cùng những hồi ức tuổi thơ
của cha họ đã sống dậy và người đàn ông được xác định là một ông bác.
Ông sống với gia đình Gyan tới ngày ông mất, nhưng không bao giờ họ biết
được ông đã lưu lạc những đâu, hay đã chiến đấu chống lại những quốc gia
nào. Ông thuộc về một thế hệ những con người trên khắp thế giới, mà với họ
quên dễ hơn là nhò, và con cái càng thúc ép, ký ức họ càng tiêu tán. Có lần
Gyan đã hỏi: “Bác ơi, nước Anh như thế nào ạ?”
Và ông trả lời: “Bác không biết… “
“Sao bác lại không biết được???”
“Nhưng đã bao giờ bác ở đó đâu.”
Ngần ấy năm trời trong quân đội Anh và ông chưa một lần tới nước
Anh. Sao lại có thể như thế được? Họ nghĩ ông đã phát tài và quên họ, sống
như một quý tộc London…
Thế thì, ông đã ở đâu?
Ông không nói. Bốn tuần một lần, ông ra bưu điện nhận món tiền trợ
cấp bảy bảng một tháng. Hầu như lúc nào ông cũng ngồi trên một chiếc ghé
gấp, lặng lẽ chuyển động gương mặt vô cảm như một đóa hoa hướng dương,
một nỗ lực dai dẳng què quặt và trống rỗng theo đuối mặt trời, mục tiêu duy
nhất còn lại của đời ông là khớp cả hai lại với nhau, khối cầu của khuôn mặt
ông và khối cầu của ánh sáng.
Từ đó gia đinh họ bắt đầu đầu tư tiền bạc cho sự nghiệp dạy học và cha
Gyan đi dạy ở một trường học của đồn điền chè tận Darjeeling.