Ông tòa nhắc lại, vẫn bằng mộc giọng trống rỗng như thế.
“Jai Gorkha,” người đầu bếp nhắc lại. “Đất Gorkha của người Gorkha,”
Sai riếp, dù họ không bị bắt phải nói gì.
“Tôi là đồ ngốc,” người đầu bếp thêm.
Miệng cười hinh hích, mấy gã trai rời khỏi hiên nhà, mang theo hai cái
thùng biến vào trong sương. Một cái sơn chữ trắng trên nền tôn đen: “Ông J.
P Patel, SS Strathnaver.” Cái kia ghi: “Cô S. Mistry, Tu viện Thánh
Augusrine.” Rồi chúng biến mất, cũng đột ngột như khi xuất hiện.
“Chúng đi rồi, chúng đi rồi,” Sai reo lên. Mutt cố hưỏng ứng dù sợ hãi
vẫn còn lấn quất trong mắt, nó cổ vẫy đuôi, dù cái đuôi cứ cụp lại giữa hai
chân. Người đầu bếp bật ra một tràng than van thống thiết.
“Humara kya hoga, hai hai, humara kya hoga,” bác rú lên. “Hai, hai,
rồi chúng ta sẽ ra sao đây?”
“Im đi,” ông tòa quát lên và thầm nghĩ, Cái lũ tôi tớ khốn nạn này sinh
ra và lớn lên chỉ biết có kêu gào. Ông ngồi thẳng đuỗn ra, mặt sắt lại cố
không nhăn nhó, hai tay bấu chặt vào thành ghế để khỏi run lên bần bật, và
dù cố đè nén chấn động trong nội tâm, ông vẫn cảm thấy dường như cả thế
gian đang rung chuyển với một sức mạnh dữ dội mà ông phải đem hết sức
mình cưỡng lại. Trên bàn là tấm khăn ông vừa mới trải, tấm khăn trắng in
hình dây nho có một vét ổ màu huyết dụ, là chỗ nhiều năm về trước ông đã
đánh đổ một ly rượu porto khi định hắt nó vào mặt vợ mình vì bà có cái kiểu
nhai làm ông ghê tởm.
“Chậm thế,” mấy gã trai đã chế nhạo ông. “Các người! Một lũ không
biết nhục… chẳng tự làm được gì cho nên hồn.” Cả Sai và người đầu bép
đều quay mặt đi, không nỡ nhìn ông tòa và cảnh ông bị lăng nhục, cho đến
tận lúc này ánh mắt cả hai vẫn né tránh tấm khăn trải bàn, hướng ra xa xăm
đâu đó giữa căn phòng, bởi nếu biết họ đã thấy chuyện tấm khăn, không thể
biết được ông sẽ trừng phạt họ thế nào. Khủng khiếp thay bước đường cùng
của một con người kiêu hãnh. Ông ta dám thủ tiêu nhân chứng lắm.