“Đừng để nó đi. Đừng để nó đi.”
Đứa con bé bỏng của bà, thằng bé với hàng ria mỏng quẹt, với thói
nghiện món choovra đặc sản của bà mà sang Anh rồi nó sẽ chẳng bao giờ
được ăn, với cái tính ghét trời lạnh mà qua đó nó sẽ phải chịu đựng quá
nhiều; với cái áo len bà tự tay đan theo một mẫu đủ kỳ khôi để biểu lộ tình
yêu thái quá của mình; với cuốn Từ điển Anh ngữ Oxford mới tinh và trái
dừa trang hoàng đẹp đẽ sẽ được thả trôi theo những con sóng làm lễ vật, để
thần linh phù hộ cho chuyến đi của thằng bé.
Hai cha con ngồi trên chuyến tàu chạy rầm rập từ sáng đến chiều, sự
bao la của vùng đất Jemu đã sống nhưng không hề nhận biết giờ đây đang
khắc sâu vào lòng cậu. Cái thực tế là họ đang ngồi trên chuyến tàu này, tốc
độ của nó, đang tái hiện thế giới cua cậu đến từng chi tiết, hiển lộ trên từng ô
cửa sổ bóng dáng của nỗi trống vắng đang háo hức chờ đợi chiếm đoạt một
trái tim không người bảo bọc. Lòng cậu nhói lên một nỗi khiếp sợ, không
phải cho tiền trình của mình, mà cho quá vãng, cho niềm tin mù quáng cậu
đã từng chung sống những ngày ở Piphit.
Mùi hôi của món vịt Bombay phơi khô dọc đường ray xua đi những
suy nghĩ của cậu trong giây lát trước khi nó tan biến vào không khí, và nỗi
khiếp sợ của cậu lại bùng lên.
Cậu nghĩ về vợ mình. Cậu mới thành đàn ông có vợ được một tháng.
Phải nhiều năm nữa… cậu mới trở về… rồi sao nữa… ? Mọi thứ đều xa lạ
vô cùng. Cô gái mới mười bốn tuổi và cậu còn chưa được nhìn mặt vợ cho
đàng hoàng.
Họ vượt qua nhánh sông nước mặn vào thành phố Bombay, xuống ở ga
Victoria, phớt lờ những tay cò khách sạn, đến ở nhờ nhà người quen của ông
bố vợ cậu, và sáng hôm sau dậy sớm lên đường ra cầu cảng Ballard.
Lần đầu Jemubhai biết được đại dương bao quanh trái đất, cậu cảm
thấy điều đó khiến mình trở nên mạnh mẽ, nhưng giờ đây khi đứng trên
boong tàu phủ đầy hoa giấy, nhìn biển khơi đang cuồn cuộn gồng lên những