nhà sang đây, vừa là để trang trí nội thất, vừa để lấy may trong chuyện tiền
bạc và thi cử.
“À,” một cô trong bọn tiếp tục câu chuyện bị Biju làm gián đoạn, bàn
tán về một cô gái Ấn Độ thứ tư không có mặt, “sao nó không kiếm lẩy một
anh ngưòi Ấn cho xong, ai mà chịu được cái tính khí cáu bẳn ấy của nó cơ
chứ?”
“Nó chả chịu giai An Độ đâu, nó không khoái kiểu một anh giai Ân Độ
tử tế từ nhỏ đã lê la tán phét với các cô các dì trong bếp.”
“Thế nó muốn cái gì mới được chứ?”
“Nó muốn một anh chàng Marlboro
có bằng tiến sĩ cơ.”
Họ có kiểu tự mãn thường gặp ở nhiều phụ nữ Ấn Độ thuộc tầng lớp có
học thức nói tiếng Anh, đi dự tiệc cocktail, ăn bánh roti bà ngoại làm bằng
những ngón tay điêu luyện, khoác sari hoặc xỏ quần chun để tập aerobics, có
thể nói “Namaste, dì Kusum, aayiye, baethiye, khaiye!’ ngon lành như
“Shit!” Họ nhanh chóng thích để tóc ngắn, háo hức những chuyện tình lãng
mạn kiểu phương Tây, sung sướng với một đám cưới truyền thống có thật
nhiều đồ trang sức: lễ xanh (là ngọc bích), lễ đỏ (là hồng ngọc), lễ trắng (là
kim cương). Họ tự đặt mình vào vị trí độc nhất vô nhị để giáo huấn tất cả
mọi người về nhiều vấn đề khác nhau: các giáo sư kế toán về kế toán, người
Vermont về lá mùa thu, dần Ấn về Mỹ, dân Mỹ về Ấn, dân Ấn về Ấn, dân
Mỹ về Mỹ. Họ tự tin, họ gây ấn tượng; ở Mỹ, nơi may cho họ là người ta
vẫn nghĩ rằng phụ nứ Ấn
Độ bị áp bức, họ được tán tụng là phi thường – một điều đem lại hệ quả
chẳng hay ho gi là càng làm đậm đà thêm bản sắc vổn có của họ.
Bánh quy may mắn họ thử rồi, cả tương ớt, xì dầu, tương đen, đũa,
khăn giấy, thìa dao dĩa nhựa cũng vậy.
“Dhanyaivad. Shukria. Cảm ơn anh. Tiền tip đây. Anh mua mũ-khăn-
găng chuẩn bị cho mùa đông đi là vừa.”