“Phải,” cô ấy đáp. Mái tóc ướt đẫm của cô ấy rủ xuống và che gần hết
khuôn mặt. Tôi ăn một ít. Có ấy ăn một ít.
“Cậu thế nào rồi?” Cuối cùng tôi hỏi.
“Mình thật sự không muốn trả lời bất kì câu hỏi nào có chữ thế nào, khi
nào, ở đâu, tại sao hoặc chuyện gì đâu. ”
“Chuyện gì thế?” Tôi thắc mắc.
“Có chữ chuyện gì. Mình không trả lời đâu. Được rồi, mình nên đi thôi.”
Cô ấy mím môi và chậm rãi thở dài, như cách Đại Tá phà ra vòng khói.
“Cái gì mà…” Rồi tôi dừng lại và đổi từ. “Mình đã làm gì à?” Tôi hỏi.
Cô ấy gom hết khay thức ăn và đứng dậy trước khi trả lời. “Dĩ nhiên là
không, cưng à.”
Chữ “cưng” của cô ấy thật trịch thượng, không phải lãng mạn, giống như
cậu trai đang trải qua cơn cuồng phong đầu tiên trong đời không thể hiểu nổi
rắc rối của cô bất kể chúng; là gì đi nữa. Tôi phải cố lắm mới không đảo mắt
trước câu nói đó, dù có thế cô ấy còn không để ý trong lúc bước khỏi căn-tin
với mái tóc ướt đẫm trên mặt.
bảy mươi sáu ngày trước
“TAO THẤY KHÁ HƠN RỒI.” Đại Tá nói vào ngày thứ chín của cơn
bão trong lúc ngồi xuống cạnh tôi trong lớp tôn giáo. “Tao đã được ơn linh
hiển. Mày nhớ cái đêm cổ đến phòng tao rồi sấn sổ như một con quỷ cái
không?” “Ờ. Vở Opera. Cà-vạt hồng hạc.”
“Chuẩn.”
“Thì sao?”
Đại Tá rút ra một quyển sổ đóng gáy, nửa trên đã ướt sũng, và tách từng
trang ra tới khi đến đúng chỗ cần tìm. “Ơn linh hiển đấy. Cổ là một con quỷ
cái.”