động từ mà là kinh Phật. Qụe je croie; que tu croies; qu’il ou qu’elle croie.
Đúng là một câu nực cười để lặp lại hết lần này đến lần khác: Tôi sẽ tin, bạn
sẽ tin, anh ấy hoặc cô ấy sẽ tin. Tin cái gì? Tôi nghĩ, và ngay lúc đó, cơn
mưa kéo tới
Nó đến bất thình lình theo dòng lũ chảy xiết, giống như Chúa đã nổi giận
và muốn cuốn phăng chúng tôi. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, trời mưa tầm
tã. Mưa dày đặc đến mức tôi không thể nhìn thấy bên kia kí túc xá, đến mức
mặt hồ dâng lên đập vào cái xích đu gỗ, nhấn chìm nửa bãi biển nhân tạo.
Đến ngày thứ ba, tôi kệ luôn cây dù và đi loanh quanh với tình trạng thường
xuyên ướt đẫm. Mọi thứ ở căn-tin có vị axit trong nước mưa và tất cả mùi
hôi mùi mốc ẩm và chuyện tắm rửa trở nên vô ích một cách buồn cười vì áp
suất nước của cả thế giới tốt hơn vòi sen nhiều.
Và mưa biến chúng tôi thành lũ ẩn sĩ. Đại Tá dành tất tật những giờ-
không-vào-lớp để ngồi trên sofa, đọc niên giám hoặc chơi game, và tôi
không chắc gã muốn nói chuyện hay gã chỉ muốn ngồi trên đống mút màu
trắng và yên phận uống ambrosia.
Sau “cuộc hẹn” tai họa của cả hội, tôi nghĩ tốt nhất là mình không nên nói
chuyện với Lara trong bất kì trường hợp nào, sợ rằng tôi sẽ bị chấn động não
và/hoặc nôn vào người em, dù em đã bảo với tôi trong lớp toán học dự bị
ngày hôm sau rằng “không chao đâu."
Và tôi chỉ gặp Alaska trong lớp và không tài nào bắt chuyện với cô ấy, vì
cô ấy đến lớp nào cũng trễ và ra về ngay khi chuông reo, trước khi tôi kịp
đóng nắp bút và gấp vở lại. Vào đêm mưa thứ năm, tôi bước vào căn-tin, sẵn
sàng quay về phòng và ăn burri-chiên hâm nóng thay cho bữa tối nếu Alaska
và/hoặc Takumi không ở đó (tôi biết rõ Đại Tá đang ở Phòng 43, ăn tối với
sữa và vodka). Nhưng tôi đã ở lại, vì tôi thấy Alaska đang ngồi một mình,
lưng tựa vào ô của sổ chằng chịt vết mưa. Tôi chộp đại một đĩa đậu bắp
chiên lớn và ngồi xuống cạnh cô.
“Quỉ thần ơi, cứ như không bao giờ tạnh vậy,” tôi nói, ý bảo cơn mưa.