Ông Hyde tập tễnh bước vào lớp, nặng nhọc tựa lên một cây gậy màu đen.
Trong lúc đi về ghế của mình, ổng lạnh lùng nhắn nhủ, “Bên gối bị tật của
tôi cảnh báo rằng trời có thể mưa. Nên các em cẩn thận đấy.” Ông đứng
trước ghế, cẩn thận ngả ra sau, đoạn nắm lấy nó bằng hai tay, rồi ngồi phịch
xuống ghế với một quãng thở đứt hơi, gấp gáp như đàn bà đau đẻ.
"Tuy còn hai tháng nữa mới đến hạn, nhưng hôm nay các em sẽ nhận
được chủ đề luận văn của học kỳ. Giờ, tôi khá chắc là các em đã đọc thời
khóa biểu của môn này nhiều và kỹ đến mức thuộc nằm lòng.” Ông nhếch
mép. “Nhưng nhớ lấy: Luận văn chỉ chiếm năm mươi phần trăm số điểm.
Tôi khuyến khích các em học hành cho đàng hoàng. Nào, giờ đến Chúa Giê-
su.”
Ông Hyde giảng về Phúc Âm Mác-cô, cuốn sách tôi đã không đọc cho
đến ngày hôm trước, dù tôi theo đạo Thiên Chúa. Tôi đoán mình đã tới nhà
thờ chừng, ừm, bốn lần. Thế là nhiều hơn nhà thờ Hồi Giáo hay giáo đường
Do Thái rồi.
Ông bảo rằng ở thế kỉ thứ nhất, vào thời Chúa Giê-su, có vài đồng xu La
Mã in hình Hoàng Đế Augustus, và dưới hình của ông ta khắc dòng chữ
Filius Dei. Con Trai của Chúa Trời.
“Chúng ta đang nói về,” ổng giải thích, “thời thánh thần có con trai.
Không khó để trở thành con trai của Chúa Trời. Phép màu, ít nhất vào thời
gian và địa phương đó, là Giê-su một thường dân, một người Do Thái, một
kẻ vô danh trong đế chế chuyên trị bởi hoàng tộc lại chính là con trai của vị
Chúa Trời ấy, Chúa Trời toàn năng của Abraham và Moses. Con trai của
Chúa Trời không phải hoàng đế. Thậm chí không phải một giáo sĩ uyên bác.
Một thường dân và một người Do Thái. Một kẻ vô danh giống như các em.
Trong khi Đức Phật đặc biệt vì ngài đã từ bỏ xuất thân giàu sang và cao quí
để được khai sáng, Giê-su đặc biệt vì ngài không giàu sang hay xuất thân
cao quí nhưng lại kế thừa địa vị thanh cao nhất: Vua của những vị Vua. Hết
giờ. Các em có thể lấy bản sao của bài thi cuối kì trên đường ra. Đừng để
mắc mưa đấy.” Phải đến khi đứng dậy ra về, tôi mới nhận ra Alaska đã cúp