làm anh không còn biết tình hình thực sự ra thế nào nữa. Thực tế anh không
rõ dịch hạch tiến triển ra sao. Đó là chưa kể ngày tháng vì vậy trôi qua
nhanh hơn và trong tình hình chung toàn thành phố, có thể nói mỗi ngày
qua đi là con người dịch lại gần hơn thời điểm chấm dứt thử thách, nếu
người đó không bị chết. Riơ phải thừa nhận điểm này đúng, nhưng đó là
một chân lý có phần quá khái quát.
Đã có một lúc Rămbe hy vọng. Anh nhận được của thành phố một tờ
phiếu thông tin để trống, yêu cầu anh điền vào một cách chính xác. Tờ
phiếu phải ghi rõ hình tích, hoàn cảnh gia đình, các nguồn thu nhập trước
kia và hiện nay, và cái mà người ta gọi là curri culum vieta
[12]
của anh. Anh
có cảm giác đây là một cuộc điều tra nhằm thống kê trường hợp những
người có thể được gửi trả về nơi thường trú của họ. Một vài tin tức mập mờ
thu thập được ở một cơ quan khẳng định cảm giác ấy. Nhưng sau một vài
lần chạy vạy, anh ta tìm ra cơ quan gửi phiếu và người ta bảo anh những
thông tin ấy được thu thập để “phòng trường hợp”.
- Phòng trường hợp gì? Rămbe hỏi.
Người ta bèn nói rõ với anh là đề phòng trường hợp anh bị dịch hạch
và bị giết: người ta có thể một mặt, báo cho gia đình anh, và mặt khác, xét
xem nên để ngân sách thành phố đài thọ viện phí hay để về sau gia đình anh
hoàn trả lại. Rõ ràng, cái đó chứng tỏ anh không hoàn bị cách xa người con
gái đang chờ mong anh, vì xã hội quan tâm đến họ. Nhưng đó không phải là
một niềm an ủi. Điều đáng lưu tâm hơn, và vì vậy Rămbe lưu ý, là cái cách
mà một cơ quan, giữa lúc tai họa hết sức ngặt nghèo vẫn có thể tiếp tục
công việc và có những sáng kiến thuộc một thời kỳ khác, vì lý do duy nhất
là cơ quan ấy được đặt ra vì công việc đó - sáng kiến trên, thông thường họ
không cho cấp trên biết.
Giai đoạn tiếp theo đối với Rămbe là giai đoạn vừa dễ dàng nhất vừa
khó khăn nhất. Một giai đoạn trì trệ. Anh đã đến gặp mọi cơ quan, làm mọi
cuộc vận động, trước mắt, mọi lối thoát về phía ấy đều bị bịt kín. Thế là anh
lang thang hết tiệm cà phê này đến tiệm cà phê khác. Buổi sáng, anh ngồi ở