chảy ra.
Tolland trầm tư. Vực ngầm Mariana sâu tới mấy dặm, một trong những địa
điểm mà hầu như chưa được giới khoa học để tâm nghiên ứu. Mới chỉ có
một vài tàu thăm dò không người lái được thả xuống độ sâu đó, và chưa
xuống đến đấy đã bị nát vụn. Áp suất nước trong vực ngầm đó cực lớn - ba
mươi sáu ngàn pound trên một xăng ti mét vuông so với hai mươi tám
pound trên mặt biển. Các nhà hải dương học vẫn còn hiểu biết rất ít về các
thực chất khác nhau tồn tại ở độ sâu đó.
- Tức là tiến sĩ Pullock cho rằng vực ngầm Mariana có thể tạo ra những
tảng đá có các phần tử trông giống chrondrule à?
- Lý thuyết này vẫn còn khá mơ hồ. - Xavia nói. - Thực ra người ta vẫn
chưa chính thức công bố lý thuyết này. Tháng trước, do tình cờ tôi đã tìm
được những ghi chép cá nhân của tiến sĩ Pullock khi đang tìm tài liệu về
những tương tác của đá nóng chảy để chuẩn bị cho bộ phim mới của chúng
ta về vòm nham thạch. Nếu không thì tôi cũng chẳng thể nào biết được.
- Lý thuyết này chưa được công bố là vì nó quá ngớ ngẩn. - Corky nói. -
Phải có nhiệt lượng thì mới có được các chrondrule. Không cách gì áp suất
nước lại có thể làm biến đổi những cấu trúc nội tại của đá được.
- Áp suất mới là yếu tố quan trọng nhất trong các biến đổi địa chất trên
hành tinh chúng ta. - Xavia phản bác. - Ông đã bao giờ nghe nói tới đá biến
chất chưa? Địa lý học nói đấy.
Corky giận tím mặt.
Tolland nhận thấy Xavia có lý. Dù nhiệt năng quả thực đóng vai trò nhất
định trong sự hình thành của một số loại đá biến chất trên trái đất, đa số các
loại đá biến chất được hình thành dưới tác động của áp suất. Các vỉa đá sâu
trong lòng trái đất chịụ áp lực lớn đến nỗi chúng tương tác với nhau như
những chất lỏng sệt chứ không phải như những loại đá cứng, trở nên đàn
hồi và trải qua những thay đổi về hoá học. Tuy nhiên, giả thuyết của tiến sĩ
Pullock mới chỉ là suy đoán mà thôi.
- Xavia này, tôi chưa bao giờ nghe nói đến chuyện chỉ cần áp lực nước
cũng đủ để làm thay đổi đặc tính hoá học của một tảng đá. Là nhà địa chất
học, cô nghĩ thế nào?