được 25 triệu đô-la phí kiểm toán cùng 27 triệu đô-la phí tư vấn. Andersen
có động cơ mạnh mẽ để giữ lại và phát triển những hợp đồng ngon lành
này. Rõ ràng là, khi bạn tìm ra vấn đề trong sổ sách chứng từ của vị khách
hàng mà bạn đang kiểm toán thì mối quan hệ khách hàng đó không thể tiếp
tục được nữa. Thêm vào đó, có vẻ như nhiều kiểm toán viên của Andersen
đã hy vọng được làm việc với Enron như rất nhiều vị đồng nghiệp trước đó
đã từng.
Sự sụp đổ của Enron không phải là duy nhất. Ngay sau khi nó gục ngã,
hàng loạt vụ tai tiếng đình đám của những tổ chức lớn đều bị phanh phui,
bao gồm WorldCom, Global Crossing, Tyco International và Parmalat.
Trong mỗi vụ, kiểm toán viên đều bị dính líu vì đã không vạch trần các sai
phạm. Những vụ tai tiếng này có lẽ đã không xảy ra nếu thành viên của các
công ty trên chịu đối mặt với các hành vi vô đạo đức của đồng nghiệp và
khách hàng thay vì cứ nhắm mắt bỏ qua. Các vụ việc này làm lộ ra điểm
yếu của hệ thống kiểm toán Mỹ: tại đây, sự mù quáng có động cơ luôn có
đường phát triển.
Max và đồng nghiệp đã kiểm tra sức mạnh của những mâu thuẫn lợi
ích loại này bằng cách cung cấp cho người tham gia khảo sát các thông tin
về tiềm năng bán hàng của một công ty hư cấu. Nhiệm vụ của người tham
gia là ước tính trị giá của công ty đó.
trong bốn vai trò: người mua, người bán, kiểm toán của người mua hoặc
kiểm toán của người bán. Tất cả những người tham gia đều tiếp nhận thông
tin giúp họ tính toán giá trị của công ty. Những người với vai trò kiểm toán
cung cấp các đánh giá của họ về giá trị của công ty cho khách hàng của
mình. Như những gì đã bàn đến trước đó trong quyển sách này về xu hướng
tự-phục-vụ, người bán cung cấp các ước định về giá trị công ty cao hơn so
với những gì người mua tiềm năng đánh giá được.
những người tư vấn cho bên mua hoặc bên bán thì nghiêng hẳn về lợi
nhuận của khách hàng của mình: Kiểm toán của bên bán kết luận một cách