1. Để có được độc lập kiểm toán, ta phải nghiêm cấm những kiểm toán
viên thiết lập quan hệ công việc dài hạn với khách hàng của họ và không
được nhận việc từ công ty họ đang điều tra.
2. Trước hết ta phải xác định xem đâu là những động cơ khuyến khích
kiểm toán viên làm hài lòng khách hàng. Tiếp theo ta cần tìm ra một số
phương pháp chuyên nghiệp để khuyến khích việc chống lại những suy đồi
bắt nguồn từ các động cơ đó.
Chúng tôi cho rằng lời giải cho bài toán này khá dễ thấy. Rõ ràng là ta
cần thiết lập một hệ thống hoàn toàn mới chứ không nên cố chắp vá một hệ
thống đã bị biến tướng. Nhưng ngành kiểm toán lại lý luận trong phiên giải
trình của SEC rằng không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh việc xung
đột quyền lợi kiểm toán là vấn đề và chưa có bằng chứng xác thực thì cũng
chẳng cần có cải cách.
Vậy liệu chúng tôi đã thuyết phục được bạn rằng khách hàng không
nên thuê kiểm toán viên về làm việc cho họ và kiểm toán viên thì không
được phép cung cấp các dịch vụ khác cho những công ty họ đang điều tra
hay chưa? Ủy viên hội đồng phía chống muốn biết liệu chúng tôi có thể tìm
ra bằng chứng xác thực, ví dụ như một tài liệu kiểm toán nào đó thể hiện rõ
ràng sự ưu tiên khi kiểm toán viên đang làm việc cho khách hàng của mình
hay không. Ủy viên của SEC cần tìm kiếm một lá thư điện tử hoặc một
miếng giấy ghi nhớ có thể cung cấp bằng chứng sai phạm có chủ đích và
cuối cùng chúng tôi không thể đưa ra bằng chứng. Hơn nữa, trong phiên
giải trình, CEO của ba công ty kế toán lớn đã nhắc nhở rằng không có bằng
chứng về bất kể giấy tờ kiểm toán nào bị sai phạm do có việc tư vấn giữa
kiểm toán viên với khách hàng. Trong khi đôi khi có thể có những vấn đề
như vậy nổi lên (như trường hợp sau này vào năm 2000, trong một vụ có
liên quan tới doanh nghiệp Arthur Andersen và Waste Management), việc
cố chứng minh sai phạm kiểm toán gây ra bởi một công ty không có dịch
vụ kiểm toán cũng khó khăn ngang với nỗ lực chứng minh bệnh ung thư