cho một đợt tấn công lớn thì nhận được lệnh rút ra. Một cựu giáo viên phổ
thông, giờ là nhà chiến thuật đã tính toán tới những thương vong mà anh ta
phải chịu đựng trong các cuộc tấn công vào chính diện, sức mạnh của quân
đồn trú được tăng cường của Pháp và việc mở rộng các pháo đài mới trước
khi quyết định rằng sự mạo hiểm này là quá lớn. Thay vào đó anh ta huy
động hàng nghìn chiếc xẻng, và Việt Minh bắt đầu đào những giao thông
hào chằng chịt dẫn tới vành đai phía ngoài của các khu căn cứ của Pháp.
4. Cảnh giác trước sự khắc nghiệt của môi trường nhiệt đới.
Người ta nói rằng rừng là trung hoà. Thực tế, nó vẫn có sự thiên lệch.
Những khu rừng núi quanh Điện Biên Phủ đều khó khăn với cả hai phía lực
lượng Việt Minh và lực lượng Pháp. Nhưng lính trẻ của Việt Minh luôn là
những người sống sót. Dù cho người thành phố đã phải chịu đựng những
căn bệnh địa phương, những gian khổ đôi khi còn có tình trạng kém dinh
dưỡng chung ở khu vực miền Bắc, Việt Minh bị bệnh dịch vì những căn
bệnh ở vùng nhiệt đới như sốt rét rừng nhưng tình trạng suy nhược của họ
cũng không thể so sánh với những gì mà người châu Âu đang phục vụ trong
quân đội Viễn chinh của Pháp phải chịu đựng. Binh lính hành quân qua
rừng đã phải chịu say nắng, mệt mỏi và tình trạng xuống súc. Bệnh lỵ và sốt
rét là phổ biến, những vết cắt nhỏ nếu không chữa trị có thể bị nhiễm trùng
và nhanh chóng trở thành nguy hiểm. Quân đội Việt Minh điều động từ Lào
về tháng 12 năm 1953 đã bị ốm yếu mệt mỏi và gầy mòn nhưng chứng tỏ
rằng vẫn có thể đi bộ tới pháo đài và có mặt tại điểm hẹn gần Điện Biên
Phủ.
Các mũi tên màu vạch ra tiến trình hoạt động của một đơn vị trên tấm bản
đồ ở sở chỉ huy đã không chỉ rõ những khó khăn cần phải đối mặt trên chiến
trường. Mệt mỏi, ốm yếu, thiếu nước, núi cao, thung lũng sâu, rừng rậm,
dòng chảy xiết chưa được đánh dấu. Nhưng những trận phục kích chết
người đã kết hợp để tạo nên một lễ rửa tội thực sự với những người lính.