tiểu đoàn đối với tinh thần của những người sống sót thuộc đơn vị này, tôi
cho rằng kế hoạch này cần được chấm dứt.
Ký tên: Cogny
Kể cả những người lính từng trải cũng nhận thấy sự có mặt của họ ở Điện
Biên Phủ thật là một bi kịch. Trung sĩ Robert Mallet, người cùng nhảy với
một trong số các đại đội thuộc Tiểu đoàn dù số 2 nhớ lại: Tuy đã ở Viễn
đông từ năm 1951, nhưng tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh tràn ngập pháo
đạn như vậy. Đêm hôm sau, Trung sĩ Braun và tiểu đội của anh ta bị giết
hoàn toàn chỉ bởi một viên đạn pháo khi đang cố gắng tập hợp lại quanh
một khẩu pháo cũ. Vài ngày sau, một quả bom lạc từ một trong những số
máy bay của đơn vị chúng ta lại dội vào chúng tôi, gây ra thiệt hại nghiêm
trọng. Một người bị thương nằm trên cáng, những người khiêng vác và một
quân y đang đi theo họ, tất cả đều bị xoá sạch trước mắt tôi. Trong một cái
rãnh đó, tôi nhặt được vài mảnh thịt vụn của những số phận bất hạnh.
Câu chuyện về những người lính tình nguyện và những kẻ thay thế được
ném xuống Điện Biên Phủ trong những chiếc máy bay nhỏ cho thấy sự mập
mờ thiếu quyết đoán vẫn tiếp tục ngự trị trong Bộ chỉ huy tối cao Pháp
trong cuộc chiến ở đây. Để yêu cầu quân đồn trú chiến đấu đến cùng, nhằm
gây ra những thương vong lớn cho Việt Minh và tận dụng thời gian là một
hành động quân sự có thể hiểu được nhằm duy trì số quân ở chiến trường,
nhưng chỉ với số lượng nhỏ đến mức họ không thể tác động được tới diễn
biến thuận lợi của cuộc chiến thì cũng đồng nghĩa với phạm một tội ác. Một
lỗi dễ hiểu đối với những cuộc thử nghiệm pháo bộ binh vào các cứ điểm
của Điện Biên Phủ là thường coi nhẹ các đơn vị phục vụ: tiếp tế, thông tin,
sửa chữa và y tế, những người có nhiệm vụ duy trì chức năng của pháo đài
và cứu chữa cho thương binh. Binh lính cấp thấp phải chịu đựng nhiều khó
khăn, mạo hiểm hơn những người từng trải trong các cuộc chiến khác.
Những công binh Pháp trung thành với phương châm “Xây đôi khi phải
phá” đang phải thực hiện nhiệm vụ dưới bom đạn và trong điều kiện ngày