lực của họ không hoàn toàn bị uổng phí. Việt Minh đã tuyển thêm lính mới
là người địa phương, hợp tác với quân Pathét Lào thân Cộng và rút ra
những bài học quý trong việc di chuyển và tiếp tế cho các sư đoàn trên
những đoạn đường dài. Họ còn thu hoạch vụ mùa thuốc phiện của người địa
phương, một mặt hàng tạo ra tiền mặt để mua bán vũ khí, thuốc men ngoài
chợ đen ở Hồng Kông, Băng Cốc và Manila.
Phản ứng với sự thay đổi đột ngột của Tướng Giáp, Tướng Salan sau đó đã
chuẩn bị bàn giao quyền chỉ huy cho Tướng Navarre. Trong đám hồ sơ báo
cáo để lại cho người kế nhiệm có một bản nhận xét chi tiết rằng một công
sự vững chắc sẽ được hình thành ở Điện Biên Phủ, Salan coi đó như một
điểm chính để bảo đảm sự an toàn cho Luang Prabang. Tướng Navarre
đang vạch ra những nét chính của một chiến lược quân sự ở Đông Dương.
Ông ta cho rằng phải giành cho được thế chủ động từ Việt Minh, một mực
đòi tăng thêm quân từ Pháp và phát triển các đội quân quốc gia ở Việt Nam,
Lào và Campuchia để thay thế các lực lượng Pháp ở các vị trí cố định.
Giống như những người đi trước, ông ta buộc phải quan tâm tới việc bảo vệ
Lào, nước liên kết chống cộng và trung thành nhất ở Đông Dương (Việt
Nam, Campuchia và Lào). Lào còn được coi là tuyến đường thích hợp nhất
cho Việt Minh tiến dọc theo phía nam của sông Mê Kông vào miền Nam
Việt Nam và Campuchia. Đánh giá của Salan về Điện Biên Phủ hợp với
những gì sớm được biết là “Kế hoạch Navarre”.
Navarre chỉ ra kế hoạch của mình cho đội quân Viễn chinh Pháp trong lá
thư đầu tiên. Ông tuyên bố: “Người ta chỉ có thể chiến thắng bằng cách tấn
công”. Washington đã nhận được lời kêu gọi thúc giục hành động này và
chính quyền Eisenhower đang xem xét tới chi phí viện trợ quân sự cho
Đông Dương đi ngược với các kết quả và lo rằng liệu việc làm của chỉ huy
Pháp có ngang bằng được với việc làm của De Lattre.
Ngày 17 tháng 7 năm 1953, 3 tiểu đoàn dù của Pháp đã nhảy dù xuống một
huyện biên giới của tỉnh Lạng Sơn, do Việt Minh chiếm giữ một trung tâm