được một cách khó nhọc khỏi bị thối ruỗng thêm một lần nữa. Để giải thích
sự khước từ của mình, sau này Navarre khẳng định - và về điểm này chẳng
ai phản bác ông - rằng các kế hoạch Cogny dự kiến đòi hỏi những phương
tiện vượt quá xa khả năng của Đông Dương:
Căn cứ vào những gì cần phải để lại tại vùng châu thổ, cần có cả thảy 1 1
đến 12 binh đoàn cơ động, 4 binh đoàn thiết giáp và 3 binh đoàn không vận.
Quả vậy tướng Cogny cho rằng ông cần: 6 binh đoàn cơ động, 2 binh đoàn
thiết giáp và 2 binh đoàn không vận cho trận đánh chính thứcl 3 đến 4 binh
đoàn cơ động để bảo vệ hệ thống giao thông liên lạc; 2 đến 3 binh đoàn cơ
động, 2 bnh đoàn thiết gáp và 1 binh đoàn không vận, phải đặt ở vùng châu
thổ. Ngoài những lực lượng ấy ra còn phải thêm 5 đến 6 tiểu đoàn trấn giữ
vùng núi chống lại những lực lượng khinh binh đã đang hoạt động ở đó và
những lực lượng khác mà quân địch có thề điều thêm tới. Vậy mà vào lúc
đó ở Đông Dương chúng ta chỉ có 8 binh đoàn cơ động, 2 binh đoàn thiết
giáp và 3 binh đoàn không vận.
Cogny thực ra có thể thực hiện cuộc tiến đánh Thái Nguyên dưới hình thức
một chuyến “khứ hồi”
trong hai hoặc ba tuần lễ theo kiểu các cuộc hành binh “Hirondelle” hồi
tháng bảy, hoặc “Mouette”
hồi tháng Mười năm 1953, nhưng không cuộc nào trong hai cuộc ấy đã thu
hút được những lực lượng đông đảo địch. Ngược lại, nó lại đòi hỏi một nỗ
lực rất lớn của không quân đã bị quá tải nặng nề. Đó là điều Navarre đã giải
thích cho cOgny khi ông qua Hà Nội hôm thứ bảy 28 tháng Mười Một
1953.
Ngày hôm sau, Cogny tháp tùng ông ta đi thăm Điện Biên Phủ lần đầu tiên.
.
Điều làm Cogny lo ngại chính là chuyện quân địch sẽ có thể tập trung phần
lớn lực lượng chủ lực của mình đánh vào chỉ một căn cứ lục quân - không
quân mà thôi, hơn nữa căn cứ này lại được phòng ngự sơ sài. Nếu ông có đề