nghĩ dại dột rằng có lẽ mình sẽ không bao giờ biết mặt con. Trước khi đi
anh đã khuyên Marizơ về nước sinh con.
Ở Điện Biên Phủ khi đại đội 2 tập hợp lại ở mặt đất, đại tá Lăng le vội chạy
đến với người bạn Étmơ mà ông ôm hôn thắm thiết như anh em và báo cho
Étmơ biết ông vừa gửi điện cho Marizơ báo cho cô biết là ông xã đã đến nơi
"an toàn". Đêm sau, đại đội 3 của đại úy Pugiê, đeo dù ở chân máy bay và
viên sĩ quan ngạc nhiên thấy trong hàng ngũ, không chỉ có một người được
hồi hương mà ông đã thuyên chuyển về căn cứ phía sau mà cả những người
ốm nằm viện nay bỗng nhiên xuất hiện và giải thích rằng họ đã hoàn toàn
bình phục. Một người trong bọn họ nói với giọng khúm núm làm như người
ta lấy lại quà đã tặng cho anh: "Thưa đại úy em không thể bỏ lỡ dịp được!”
Trung úy Néctu thuộc đại đội Pugiê, nhớ lại là trước khi đi "đại tá Sôvanhắc
đã đến lưu ý mọi người về tầm quan trọng và các khó khăn của cuộc nhảy
dù: không có khu vực nhảy thực sự, cọc tiêu chỉ gần đúng thôi còn hỏa lực
cao xạ thì mãnh liệt và liên tục”.
Sau bài diễn văn để củng cố tinh thần đó, quân dù ngồi vào các ghế dài có
thể hạ xuống và các máy bay Băng giô cất cánh, mang theo cùng với họ
một phần của đại đội chỉ huy của đại úy Penduýp.
“Sau một cuộc bay vô sự ở độ cao nhỏ, Néctu kể, tình hình đã xấu đi ở trên
bầu trời Điện Biên Phủ, máy bay phải quay vòng trên các lớp mây. Chiếc
Đacôta mà tôi đi, bay xuống một cách chóng mặt để có một độ cao hợp lý
cho việc thả dù - giữa 100 và 200m - giữa những đường đạn vạch đường và
những tiếng nổ của đạn cao xạ, trong lúc một đèn chiếu quét tìm nó để cho
bắn hạ nó trước khi nó bay lên cao. Đó là phương pháp: làm thế nào để máy
bay đổ các toán dù ra một cách nhanh nhất rồi quay về nhờ mây che khuất.
Tôi nhảy xuống một bãi đất đầy dây kẽm gai đã tháo rời và những hố đạn
bùn lầy, cúi đầu theo quán tính dưới các làn đạn. Tôi tập hợp được một số
người của trung đội gồm 14 người Âu và cũng chừng ấy người Việt. Ba