quý, hộp nọ lồng trong hộp kia. Còn vật báu thì nằm trong chiếc hộp thứ
bốn mốt.
Quốc vương đã mở hết bốn mươi cánh cửa. Ngài bước vào phòng thứ
bốn mốt. Ngài mở hết bốn mươi chiếc hộp xong thì hồi hộp cầm lấy chiếc
hộp thứ bốn mốt. “Không biết cái vật báu mà chúng ta gìn giữ bao nhiêu
năm nay là vật gì đây?” - Ngài hồi hộp tự hỏi mình.
Khi ngài mở chiếc nắp ra thì trước mắt ngài hiện ra một báu vật đẹp
chưa từng thấy trên đời này. Nó đỏ rực như lửa, vàng không phải vàng,
bạch kim không phải bạch kim, lại càng không phải bạc. Quốc vương
không kìm nổi lòng thèm muốn. “Ta phải lấy cái vật báu mà cha ông để lại
này để giữ riêng cho mình. Nó sẽ là của riêng mình ta. Dù sao thì cũng
chẳng có ai biết”.
Lôi cái báu vật sáng rực như mảnh mặt trời từ trong hộp ra ngài nhét nó
vào túi áo. Nhưng bỗng ngài thấy sợ: “Nhỡ có người phát hiện ra việc ngài
ăn trộm nó thì sao?” Thế là ngài quyết định: “Ta sẽ lấy cái báu vật này và
thay vào nó là một mẩu bạch kim có khảm ngọc trai và đá quý. Chưa ai
được nhìn thấy vật báu nên mọi người sẽ không thể phát hiện ra sự đánh
tráo này”.
Quyết định thế nào ngài làm đúng như thế. Sau đó ngài lần lượt nhét tất
cả những cái hộp vào nhau, đóng lần lượt tất cả các cửa phòng lại, rồi bước
ra ngoài.
Tuy đã ra đến ngoài nhưng có ai bảo đảm cái vật báu giả kia không bị
phát hiện? Để không ai biết ngài đã ăn cắp vật báu, từ hôm đó Quốc vương
ra lệnh hàng năm phải làm lễ cầu nguyện hai lần, chứ không phải một lần
như trước. Từ đó cứ một năm hai lần Quốc vương và toàn thể thần dân lại
tập trung trên quảng trường thề trung thành và bảo vệ vật báu thiêng liêng
do tổ tiên để lại.
Người ta nói Thừa tướng là người đa mưu túc trí. Ông cứ suy nghĩ và
phỏng đoán mãi về chuyện tại sao Quốc vương bỗng ra lệnh phải cầu
nguyện một năm hai lần. Trong khi trước đây chỉ một lần là đủ.
“Mà cái vật báu mà chúng ta phải gìn giữ ấy thực ra là vật gì vậy nhỉ?” -
Thừa tướng nghĩ. Cuối cùng, không chịu được ngài đi đến kho tàng. Sau