Lộng Ngọc học được phép tiên của chồng cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại
dạy vợ thổi tiêu.
Ở nhau được non nửa năm, nhân một đêm trăng sáng vằng vặc, vợ chồng
đem tiêu ra thổi. Bỗng thấy một con phượng xuống đậu bên tả, và một con
rồng xuống phủ phục bên hữu. Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc:
- Ta vốn là tiên ở thượng giới, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy sử sách trần
gian nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Chu để
san định lại. Người nhà Chu thấy ta có công về việc sử sách mới gọi ta là
Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng cho ta làm chủ ở núi
Họa Sơn, vì ta cùng nàng có tiền duyên nhau, nhờ khúc ngọc tiêu mà được
cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay
rồng và phượng đã đến đón, vậy chúng ta cùng nhau đi.
Lộng Ngọc định vào từ biệt cha. Tiêu Sử ngăn:
- Không nên! Đã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.
Đoạn Tiêu Sử cưỡi rồng, Lộng Ngọc cưỡi phượng cùng bay lên trời.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Từ Hải cùng Kiều
gặp gỡ, có câu:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
"Đẹp duyên cưỡi rồng" là do điển tích trên.
"Bói phượng có nghĩa là kén được chồng tốt.
Sách Tả Truyện có chép: Trần Trọng Kính sang nước Tề, được vua nước
này cho coi việc công chính. Quan Đại Phu nước Tề có ý muốn gả con gái
cho Trọng Kính. Người vợ liền bói một quẻ, bảo rất nên. Vì quẻ bói nói:
"Phượng hoàng vu phi, hòa minh tương tương" nghĩa là phượng hoàng
cùng bay, cùng hót vang vang.
Phượng là tên một giống chim. Theo sách cổ, đó là một trong 4 con thú linh
thiêng: Long, Lân, Qui, Phượng, đem lại điềm lành, và chỉ khi nào có đời
thái bình hay thánh nhân ra đời thì mới xuất hiện.
Phượng là chúa loài chim. Con trống là phượng; con mái là hoàng. Loan là
một giống chim cùng loại với phượng hoàng. Vì là đồng loại nên người ta
hay dùng để ví với vợ chồng. Ca dao có câu: