phố Ba Lê? Chẳng lẽ khi coi đoạn phim này, những tên lính thực dân ở đây
không nhớ đến cảnh nhục nhã của vợ con chúng trước đây sao? Trước cửa
quán cà-phê cũng còn tấm bảng dựng nghiêng, cả hai mặt đều kẻ chữ
"Paradis" trên nền xanh có rải rác những vì sao óng ánh.
Vũ bước vào. Hai dãy bàn ghế bằng mây khá sang, không còn chỗ trống.
Khách ngồi im lặng, họ đang thả hồn theo bản nhạc buồn, giọng ca Khánh
Ngọc, trầm trầm nức nở, day dứt người nghe. Quán không mấy rộng,
nhưng rất sâu, Vũ chầm chậm bước mãi vào bên trong, le lói vài bóng đèn
màu, không làm giảm cảnh âm u khiến Vũ có cảm tưởng đang đi trên con
đường vào sâu lòng đất, vào sâu địa ngục, không hợp với tên quán "Thiên
đường". Anh tìm được chỗ trống trong góc cùng, ngồi ngả lưng vào thành
ghế, có thể nhìn suốt ra tận ngoài.
Một nhóm mươi tên lính Pháp còn ở lại chúng cũng im lặng, không ầm ĩ
như trước đây, ngây ngô ngắm những ly rượu đã vơi. Có lẽ hơi men làm
cho chúng thấm nỗi buồn thân phận. Còn lại hầu hết là những thanh niên
đang tập vào đời với hàng ria mép thời trang với vẻ ngông nghênh thách
thức. Chưa hiểu đời, chúng đã vội chán đời, gục đâu trong khói thuốc, hơi
men, mặt còn non nhưng miệng phát ngôn toàn những lời chai sạn. Chắc là
chúng đang chờ đến lượt đi, và trong tương lai con đường dễ đi nhất đối
với chúng là làm lính đánh thuê cho giặc.
- Ông uống cà phê?
- Vâng, một phin.
Người hàu bàn đến gần hỏi, Vũ trả lời. Ly cà phê mang đến, Vũ vừa chậm
rãi nhấm nháp, vừa ngắm những bộ mặt thẫn thờ, ngây ngất theo giọng hát,
lời ca đang cuốn hút họ, xô đẩy những tâm hồn non dại vào bùn đầy sa đọa,
tội lỗi?
Mùa đông trời thật mau tối. Khi Vũ ra khỏi quán, đèn đường đã bật sáng.
Vẫn ánh sáng quen thuộc đó trên đường phố Hà Nội, nhưng đêm nay Vũ
thấy có gì khác. Anh được biết là trong nhiều ngày nay, anh em công nhân
đã bám xưởng, đấu tranh không cho địch gỡ máy đem đi. Địch phải rút
chạy, nhưng Hà Nội điện vẫn sáng?
Vũ kéo vành mũ thấp ngang tầm mắt. Mưa phùn tung bụi nước xuống mặt