chẽ sẽ ngăn chặn bất kỳ người Việt Nam nào có thể đặt chân vào
Mỹ. Ví dụ, các sĩ quan quân đội Việt Nam bao giờ cũng không vượt
qua được phần kiểm tra y tế. Nhiều người trong số họ đã bị nhiễm
lao hoặc mới hồi phục khỏi những lần nhiễm bệnh trước đó. “Tôi
tốn rất nhiều thời gian đôi co với các bác sĩ người Mỹ về những
phần kiểm tra này,” Phạm Xuân Ẩn nhớ lại. “Tôi phải giải thích với
họ sự khác nhau giữa các vết sẹo do những ca nhiễm bệnh từ trước
và những ca lao phổi hiện tại.” Giun sán cũng là một vấn đề động
chạm khác. Ở một đất nước dùng phân người để bón ruộng, hầu
như không có mấy người Việt Nam không nhiễm các loại ký sinh
trùng. “Có cả giun móc rồi sán xơ mít, thôi thì đủ các loại giun sán,”
Phạm Xuân Ẩn nói. Lần cuối cùng Phạm Xuân Ẩn nổ súng là khi
ông bắn vào một trung đội lính
Pháp đang hành quân ở vùng châu thổ sông Mê Công tháng 4
năm 1946, nhưng ông lại được trang bị vũ khí lần nữa khi ra chiến
trường cùng hai quân nhân Mỹ tháng 1 năm 1956. Ông mang theo
khẩu súng ngắn do ông anh họ đưa cho trước khi ông này trốn ra
nước ngoài sống lưu vong. “Đó là một khẩu Walther 7,65 mm, với
phần báng màu nâu và nòng súng ánh lên màu xanh biếc, bóng
loáng. Đó là loại mà tụi tôi gọi là ‘súng ngắn tình ái’. Nó được thiết
kế để mang theo trong túi xách hoặc túi áo và rút ra mỗi khi cần bắn
vợ mình hay nhân tình của cô ta.”
“Tôi chưa bao giờ sử dụng khẩu súng đó, và tôi thậm chí còn
không biết nó hoạt động như thế nào, cho đến một hôm tôi ra chiến
trường với tư cách là sĩ quan liên lạc cho đại tá Glenn và đại tá
Hicks, hai cố vấn Mỹ. Tụi tôi đang vào vùng châu thổ để theo dõi
binh lính của Diệm chiến đấu với những lực lượng cộng sản cuối
cùng đã bị rớt lại. Chúng tôi lái xe jeep tới Long Hà rồi đi xuồng từ
đó tới Mộc Hóa, ở Đồng Tháp Mười, gần biên giới Campuchia. Khi
ra chiến trường cùng với người của Lansdale, tôi buộc khẩu súng
vào khuy thắt lưng của mình bằng một sợi dây, để nếu nó có bị rơi
ra khỏi túi tôi cũng không mất được.”