biến đi. Tầm quan trọng của Ấp Bắc nằm ở chỗ: đó chính xác là
những gì Việt Cộng đã làm, lần đầu tiên. Nhưng họ làm điều đó
theo kế hoạch được xây dựng rất công phu của riêng mình, chứ
không phải là bị dồn vào thế đường cùng và buộc phải tự vệ.”
Tiếp sau Ấp Bắc, Phạm Xuân Ẩn bận rộn với việc theo dõi các sự
kiện lớn khác của năm 1963, gồm cả cuộc đấu tranh phản đối của
Phật tử chống lại chính phủ ngày càng tàn bạo của Ngô Đình Diệm.
Các nhà sư bắt đầu ngồi với tư thế tòa sen trên những đường phố
Sài Gòn, tự tưới xăng lên người, rồi tự thiêu đến chết. Để khuếch
trương phong trào phản đối của mình, họ cần một nhà báo, người có
thể đưa tin về những vụ tự thiêu sắp xảy ra mà không báo trước cho
cảnh sát. “Trước khi tự thiêu, các nhà sư thường gọi điện và cho tôi
biết trước câu chuyện,” Phạm Xuân Ẩn nói. “Tôi biết là có người sắp
chết. Nếu tôi báo với cảnh sát, một mạng sống sẽ được cứu, nhưng
điều đó đi ngược lại quy tắc. Nguồn tin đã cung cấp tin cho tôi với
điều kiện tôi không được tiết lộ nó trước khi sự việc xảy ra. Đó là
quy tắc đạo đức của nghề báo. Anh phải tuân thủ chúng, cho dù có
khó khăn đến đâu chăng nữa.” Đó cũng là quy tắc của một người
tình báo, người biết rõ giá trị tuyên truyền của những nhà sư tự
thiêu.
Ngày 1 tháng 11, chính quyền của Ngô Đình Diệm bị lật đổ trong
một vụ đảo chính được Mỹ hậu thuẫn. Ngô Đình Diệm và hai người
em trai bị giết. Viên sĩ quan CIA theo dõi vụ việc này, với một
đường dây điện thoại mở tới Đại sứ quán Mỹ và 42.000 đô la đổi
sang tiền miền Nam Việt Nam nhét trong túi áo là Lou “Luigi Đen”
Conein, bạn của Phạm Xuân Ẩn. Ba tuần sau, Tổng thống John F.
Kennedy bị ám sát tại Dallas, bang Texas.
“Nói cho đúng, thì có lẽ tôi mới là người đã sa thải anh ta,”
Turner nói, cách lựa chọn ngôn từ của ông ta cho thấy đây là một
chủ đề phức tạp. “Phạm Xuân Ẩn là nhà báo người Việt Nam xuất
sắc nhất thành phố. Anh ta có đầu óc rất tinh vi. Anh ta có những
mối quan hệ tốt nhất trong giới quân sự và tình báo. Người Mỹ tin