Mỹ đi cùng anh, mà nếu cô ta bị giết, tôi sẽ gặp cơ man nào là rắc
rối. Con đường anh vừa đi qua ngày nào chẳng bị cộng sản tấn
công. Lần nào có đoàn xe đi là chúng tôi lại phải rà mìn. Liên tục có
người bị phục kích và giết chết.’”
Vì Vann đi vắng, nên Phạm Xuân Ẩn và Deepe gặp Doug
Ramsey, viên phó của ông ta. Họ ăn trưa sớm để quay về Sài Gòn
trước khi trời tối. Viên tỉnh trưởng cử một trung đội đi rà phá mìn
và hộ tống họ ra đường 1. Tuần sau đó, Ramsey bị cộng sản bắt giữ,
họ giam giữ anh ta suốt bảy năm liền.
“Khi họ bắt giữ ai đó, họ sẽ cho tôi biết,” Phạm Xuân Ẩn nói. “Tôi
nói với họ: ‘Anh ta là một người tốt. Các anh nên trả tự do cho anh
ta.’ ‘Nhưng anh ta nói tiếng Việt,’ họ nói. ‘Chúng ta phải cảnh giác
với những tên biết nói tiếng Việt.’ Mãi đến khi ký kết Hiệp định
Paris, sau khi đã sống sót qua những đợt không kích B-52, đói ăn,
bệnh scobút, tê phù, và 136 cơn sốt rét ác tính, Ramsey mới được trả
tự do năm
1973.”
Mùa thu năm 2007, tôi biết được phần còn lại của câu chuyện về
Ramsey qua một cựu quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ yêu cầu được
giấu tên. Phạm Xuân Ẩn không chỉ cứu mạng Ramsey, ông còn
thuyết phục những người cộng sản đồng ý trao đổi
Ramsey lấy một sĩ quan cộng sản đang nằm trong tay phương
Tây. Không may cho Ramsey, vụ trao đổi bị CIA ngăn trở, vì cơ
quan này còn đang bận thẩm vấn người tù binh kia. Lời khai của
một sĩ quan cấp cao Việt Cộng có thể mở rộng quan lộ cho nhiều tay
CIA. Ramsey cứ việc chờ.
Phạm Xuân Ẩn còn những lý do hay ho khác để làm việc cho
Beverly Deepe. “Những nhà báo nữ người Mỹ có lợi thế so với đàn
ông,” ông nói. “Những người mà họ phỏng vấn cứ chắc mẩm có thể
đánh lừa được phụ nữ. Họ tưởng họ có thể lừa cho các nhà báo nữ
nhắc lại như vẹt những ý tưởng và định kiến của mình. Trong các