cấp tác chiến, và đội ngũ ngoại giao hạng hai. Phạm Xuân Ẩn, vốn
là một ký giả làm việc cho Mỹ nhưng cũng được người Việt Nam tin
cậy, có thói quen ghé thăm ít nhất là năm chỗ như vậy mỗi buổi
sáng trước khi ông đến Givral, rồi sau đó, sau bữa trưa, ông tới các
buổi giao ban chính thức của Mỹ và Việt Nam rồi lại quay về Givral.
‘Phải mất nhiều thời gian mới xây dựng được các nguồn tin của
mình,’ anh ta nói. ‘Anh phải tỏ ra thẳng thắn và chân thành, và anh
phải bảo vệ nguồn tin của mình. Anh cũng phải làm giúp việc này
việc kia cho họ - cho họ biết những gì họ muốn biết, mời họ ăn trưa
ăn tối, biếu họ quà Tết. Sài Gòn vận hành theo cung cách của những
giới xã hội này. Nếu anh không đủ tư cách đối với một giới nào đó,
anh sẽ không được chấp nhận trong nhà hàng của giới đó. Người ta
cứ thế phớt lờ anh. Nhà báo - những người giỏi - là những người
thông tin hiệu quả nhất, vì họ ở vị trí có thể nghe thấy nhiều điều từ
rất nhiều nguồn khác nhau. Toàn bộ điều đó giống như một trường
học. Anh có thể tốt nghiệp từ giới này sang giới kia, cũng như anh
chuyển từ lớp này lên lớp khác, một khi anh vượt qua những kỳ thi
của mình.’“
Trong cuốn sách Chiến thắng cay đắng (Bi er Victory) của mình, mà
ông viết sau khi đi xuyên Việt Nam và Campuchia năm 1984,
Shaplen gọi Phạm Xuân Ẩn “chắc chắn là một trong những người
thạo tin nhất trong thành phố… Trong những lần trò chuyện của
chúng tôi qua nhiều năm, thường kéo dài đến hàng giờ, tôi phát
hiện ra rằng những sự thật và quan điểm mà anh ta ấp ủ liên quan
đến cộng sản, chính phủ, và rất nhiều cá nhân cũng như các nhóm
đang tranh giành nhau - gồm cả những tín đồ Phật giáo và Công
giáo phản đối cả hai phe trong cuộc chiến - luôn chính xác hơn bất
kỳ thứ gì tôi có thể thu thập được từ những nguồn khác, thậm chí cả
từ Đại sứ quán Mỹ, nơi biết ít đến ngỡ ngàng những gì đang diễn ra
giữa những người Việt Nam vốn không theo một khuôn phép nào
cả”.