học để phản công. Tướng Earle “Bus” Wheeler, cựu giảng viên toán
tại West Point, khi đó là chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên
quân, đã đánh điện cho tướng William Westmoreland, cựu hiệu
trưởng West Point và là tư lệnh lực lượng Mỹ tại Việt Nam, hỏi xem
có nên “sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật không”. Ông ta yêu cầu
Westmoreland liệt kê một danh sách các mục tiêu “có thể tấn công
bằng vũ khí hạt nhân”. Westmoreland tham mưu là không nên
dùng bom nguyên tử, ít nhất là trong thời điểm hiện tại, mặc dù ông
ta bảo đảm với cấp trên rằng mình sẽ ghi nhớ ý tưởng đó trong đầu.
“Tôi hình dung rằng hoặc vũ khí hạt nhân chiến thuật hoặc các chất
độc hóa học sẽ là những phương án dự bị để triển khai,”
Westmoreland điện cho Wheeler.
Bất chấp những lời bảo đảm điềm đạm mà Westmoreland công
khai đưa ra tại thời điểm đó, ông ta thực sự bị rúng động bởi Tổng
tấn công Tết Mậu Thân 1968. “Xét từ một quan điểm thực tế, chúng
ta phải chấp nhận sự thật rằng đối phương đã giáng cho chính phủ
Việt Nam Cộng hòa một đòn nặng nề,” ông ta đánh điện cho
Wheeler. “Họ đã đưa chiến tranh đến các thị xã và thành phố, đồng
thời gây ra thiệt hại và thương vong cho dân chúng. Nhà cửa đã bị
phá hủy, việc phân phối hàng hóa nhu yếu phẩm bị cắt đứt. Các
tuyến thông tin liên lạc bị hư hại và nền kinh tế bị tàn phá. Tình
trạng thiết quân luật đã được áp dụng kèm giờ giới nghiêm chặt chẽ
tại các thành phố. Người dân đã cảm nhận trực tiếp tác động của
chiến tranh.” Trong một bức điện khác gửi Wheeler, Westmoreland
thú nhận rằng Tổng tấn công Tết Mậu Thân đã giúp cộng sản giáng
“một đòn tâm lý, có lẽ vào Washington còn nặng nề hơn vào Nam
Việt Nam”.
“Kế hoạch ban đầu là giải phóng toàn bộ miền Nam chỉ trong
một đợt,” Phạm Xuân Ẩn nói. “Tôi nghi ngờ việc có thể đạt được
mục tiêu đó chỉ trong một đợt tấn công, nhưng tôi ủng hộ Tổng tấn
công Tết Mậu Thân. Sau khi Mỹ bắt đầu đưa quân vào Việt Nam, tôi
thúc giục Việt Cộng tổ chức một đợt phản công. Đến năm 1966 tôi