quân Mỹ, để liên lạc với sở chỉ huy của mình bên kia biên giới
Campuchia. Một lần, quân Mỹ bắt được tín hiệu của chúng tôi.
Chúng bắn hơn hai trăm viên đạn vào ngôi nhà. Trước kia chúng
thường xuyên ném bom khu vườn. Chúng tôi nhảy xuống mương
ẩn náu đến khi qua đợt ném bom.”
Tư Cang cầm cuốn sổ của tôi và vẽ một sơ đồ khác. Nó cho thấy
ngôi nhà này, nằm xuôi về phía con đường cách chỉ có vài trăm mét
từ sở chỉ huy Sư đoàn 25 bộ binh, đánh dấu đầu phía Nam của địa
đạo Củ Chi như thế nào. Mạng lưới địa đạo trải rộng về phía Bắc từ
đây dọc theo dòng sông, cho phép tẩu thoát nhanh chóng và tạo ra
một rào cản tự nhiên chống lại những chiếc xe tăng Mỹ.
Đứng trong khu vườn nơi ông đã sống suốt một thập kỷ như một
con chuột chũi chui ra rồi lại thụt vào trong các địa đạo để tránh
bom và đạn pháo, Tư Cang ngừng lại, quệt bàn tay ngang mắt rồi
ngước nhìn lên mấy con chim đang bay lượn qua những cành cây.
“Tất cả những đồng đội ngày xưa của tôi đều không còn nữa,” ông
nói, bằng thứ tiếng Pháp ông học từ thời còn là học sinh trong
những năm 1940. “Tôi nhớ họ mỗi lần tôi đứng đây và ngắm nhìn
khu vườn nơi này, nơi trước kia tôi từng sống.”
Tư Cang bắt đầu hát một bài hát cách mạng ngày xưa về những
thiếu niên Việt Nam đánh Pháp bằng gậy tầm vông vót nhọn. Thủy
Nach hòa nhịp cùng giọng nam cao ngọt ngào của ông. Bà cũng
thuộc lời của tất cả những bài hát mà bà đã học khi còn là một cô bé
sống ở vùng Việt Minh ngoài miền Bắc. Họ cùng đứng bên nhau
trong vườn hát bài “Chiến thắng mùa thu 1945”.
Anh em ta nhi đồng cầm súng gỗ
Tuy em bé này nhưng thề quyết chống xâm lăng
Nào mau ra đây ta giết quân thù chung
Sạc đạn lên ta bóp cò đánh ầm
Anh em ta phang quân giặc bằng cái báng Ta phang vỡ đầu vỡ đầu cái
giống xâm lăng.