sôi sục chống Pháp tại nước Việt Nam thuộc địa. Giống như nhiều
câu chuyện khác của ông, câu chuyện này, kéo dài từ nhiều thế hệ
tiếp nối nhau, liên quan đến một mớ rối rắm những mối quan hệ gia
đình và xã hội đan xen vào nhau chặt chẽ đến nỗi tôi hầu như không
thể nào bóc gỡ nổi. Nhằm giúp tôi, ông Ẩn đưa ra một cái tay vịn để
theo dõi nội dung câu chuyện khi lần ngược lại quá khứ lịch sử của
Việt Nam.
Nhân vật trung tâm của câu chuyện hôm đó là bà Nguyễn Thị
Bình, tên của bà thường xuyên được nhắc đến trong những câu
chuyện của ông Ẩn. Bà Bình và ông Ẩn đều sinh năm 1927, là những
người bạn từ thời thơ ấu. Cha của hai người là bạn học ở Đại học
Đông Dương và cùng làm kỹ sư công chánh với nhau ở Nam Kỳ. Lẽ
ra bà Bình và ông Ẩn đã có thể lấy nhau nếu như con đường đi của
họ không rẽ tách trong thời gian diễn ra những cuộc chiến tranh liên
miên của Việt Nam. Bị thực dân Pháp giam cầm hai năm, bà Bình về
sau trở thành bộ trưởng Ngoại giao của
Mặt trận Dân tộc Giải
phóng (liên minh của những người cách mạng miền Nam với lực
lượng vũ trang được gọi tắt là Việt Cộng)
và là trưởng phái đoàn
của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng
tại các cuộc đàm phán ở Paris.
Năm 1992, sau khi đảm nhiệm cương vị bộ trưởng Giáo dục, bà
Nguyễn Thị Bình được bầu làm phó chủ tịch nước Việt Nam. Trong
giai đoạn hỗn loạn ngay sau khi chiến tranh tại Việt Nam kết thúc,
chính bà đã giúp ông Ẩn đoàn tụ với gia đình tại Sài Gòn, nhưng
câu chuyện hôm nay thậm chí còn đi ngược lại xa hơn nữa về mặt
thời gian.
Ông của bà Nguyễn Thị Bình là nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, người
tổ chức các phong trào chống thực dân tin rằng nước Pháp nên tôn
trọng những nguyên tắc dân chủ của mình bằng cách thay thế hệ
thống cai trị bằng quan lại của Việt Nam - mà ông cũng là một thành
viên - bằng luật pháp và những định chế hiện đại. Sau khi những
cuộc nổi dậy chống sưu thuế nổ ra năm 1908, Phan Chu Trinh bị kết
án tử hình, nhưng được chuyển thành án tù và bị đày ra nhà tù Côn