gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong
ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình
dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.”
Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và
giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết:
“Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta
đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi
người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho
đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê
mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ
tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi
rằng đây là lần chia tay cuối cùng.”
Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ
(với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế
giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và
tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và
những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về
những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này.
Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến
(của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin
khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến
thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền
muộn này nói về
thông tin và hỏa mù
cùng sự mơ hồ không thể
tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập
vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được
đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói
về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm
trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu.