sáu, bảy năm ngài sống trong một hang đắp đất bùn được đào sâu bên triền núi.
Trước đây ở Tây Tạng, trên những núi cao lỗ chỗ những hang trông xa xa như
những tổ kiến, đó là những hang động mà các thiền giả đến sống trên núi để thực
hiện cho được sự thành tựu con đường đưa tới giác ngộ. Họ đào hang sâu vào
trong núi và bít miệng hang. Ngày nay còn lại rất ít các hang như vậy.
Ngài nhập thất ẩn tu ở trên núi trong sáu, bảy năm và thực chứng trạng thái an
định, hay Định Tam-muội (Shamatha) cùng với Bồ-đề tâm. Ngài cũng đạt được
các chứng ngộ Tantra. Với sự thành tựu tam-muội, hành giả sẽ có được sự tập
trung nhất tâm và không dao động; một khi tâm tập trung vào một đề mục, hành
giả có thể kéo dài sự tập trung vào đề mục đó trong nhiều tháng, nhiều năm, và
thậm chí trong nhiều kiếp nếu muốn. Tâm và thân của hành giả trở nên hoàn
toàn được tinh luyện. Các vấn đề thuộc về cơ thể như bệnh tật, mệt mỏi .v.v...
không còn là chướng ngại của thiền định và hành giả kinh nghiệm được trạng
thái “đại lạc” cả về tinh thần lẫn thể xác.
Vì thành tựu pháp định tam-muội, ngài có được linh kiến và có thể sử dụng năng
lực này để khuyên bảo, cho ý kiến về các vấn đề của người khác. Các thành tựu
mà ngài đạt được đã khiến cho ngài trở nên nổi tiếng. Ngài lập một tu viện cho
tăng và ni ở Tư Tsang, thuộc những vùng cao của Tây Tạng. Khi Tây Tạng có
biến động (... ...), ngài cùng các vị tăng ni đi sang Nepal. Ngài đã xin ý kiến đức
Dalai Lama về việc có nên sang định cư ở Ấn Độ hay không. Đức Dalai Lama
khuyên ngài ở lại Solu Khumbu, và ngài đã lập một tu viện cho tăng ni ở sườn
núi dưới chân hang Lawudo. Nhờ vào các thành tựu, ngài cũng đã sớm trở nên
nổi tiếng ở Solu Khumbu.
Ngài thường bảo các học trò trộn phần trà bơ còn lại sau bữa ăn của ngài với bột
tsampa rồi vê thành những viên thuốc. Rồi ngài đưa những viên thuốc đó cho các
dân làng bị bệnh khi họ đến xin thuốc. Nhiều người được khỏi bệnh tức thì nhờ
các viên thuốc đó.
Thỉnh thoảng ngài đột nhiên thị hiện bệnh nặng, ói ra máu, có khi đầy cả một