Dẫu sao ngay cả bây giờ tôi không thích ra khỏi nhà một mình trong đêm
tối và tôi cũng không thích ở một mình trong căn nhà buồn tẻ này... Bao giờ
cô cậu chủ tôi bỏ đây, dọn sang Họa Mi Trang thì tôi mừng lắm.
Tôi hỏi:
“Họ sắp dọn sang Họa Mi Trang rồi sao?”
“Vâng, sau khi làm đám cưới xong vào ngày đầu năm tới."
“Thế ai sẽ ở đây?”
“Dọi sẽ trông coi nhà cửa. Có thể có một thẳng bé đến ở với lão. Họ ở căn
bếp, còn thì khóa lại hết..."
Tôi tiếp lời:
“... để cho mấy hồn ma về ở."
Bác Diễn lắc đầu:
“Không đâu. Tôi tin rằng người chết đều an nghỉ. Mình chả nên nhẹ dạ, ông
Lộc ạ, nói tới họ mà không suy nghĩ là điều không tốt."
Lúc đó, cánh cửa vườn mở ra. Hai người đi dạo chơi đã về. Tôi nhìn họ qua
cửa sổ và khẽ nói:
“Họ chẳng sợ gì hết. Họ ở bên nhau thì có đến sa tăng hay cả bầy ác quỷ họ
cũng bất chấp...”
Khi bước lên thềm đá hai người còn đứng lại ngắm trăng một lần chót. Hay,
nói đúng hơn, họ đứng lại nhìn nhau dưới ánh trăng. Một lần nữa tôi thấy
mình phải dằn lòng trốn họ.
Tôi dúi vội một đồng tiền vàng vào tay bác Diễn, rồi không để ý đến lời
bác ta trách tôi sỗ sàng, tôi chuồn nhanh vào bếp, trong lúc họ mở cửa vào
phòng. Hành động như vậy chẳng khác nào tôi đã xác nhận với Dọi rằng ý
kiến của lão về những hành vi lẳng lơ của bà Diễn là đúng, nếu chẳng may
tiếng đồng tiền vàng kia rớt xuống chân lão kêu lenh keng không làm lão
nhận ra tôi là người đàng hoàng đáng kính.
Khi quay về Họa Mi Trang tôi đi đường vòng về phía nhà thờ. Tới chân
tường, tôi nhận thấy mới có bẩy tháng mà nhà thờ đã đổ nát thêm nhiều.
Nhiều cửa sổ đã mất kính, chỉ còn những lỗ trống đen ngòm, nhiều viên
ngói đã tróc ra, chỉ còn đợi cơn gió bão mùa thu là bay dần đi hết.
Tôi đi tìm và thấy ngay ba tấm bia đá trên dốc cạnh cánh đồng cỏ hoang.