chết của ông chủ. Tôi giấu nhẹm vụ ông Hy không ăn uống gì từ bốn hôm
nay, nói ra chỉ sợ gây thêm rắc rối. Vả lại tôi tin rằng ông không cố ý nhịn
đói: đó là kết quả chứ không phải là nguyên nhân chứng bệnh kỳ dị của
ông.
Mặc cho lối xóm dị nghị và làm rùm beng, chúng tôi cứ chôn cất theo đúng
ý nguyện người quá cố. Chỉ có Hạ, tôi, người phu đào huyệt và sáu người
phu đòn tham dự đám tang. Sáu người này về ngay sau khi hạ huyệt, chúng
tôi ở lại để coi đắp mộ. Hạ, nước mắt đầm đìa, nhặt từng tảng cỏ xanh, tự
tay đắp lên nấm đất nâu mềm. Ngôi mộ bây giờ cũng bằng phẳng và xanh
tươi như những ngôi bên cạnh... và tôi hy vọng người nằm trong đó cũng
say sưa an giấc như những người kế cận.
Thế nhưng... nếu ông có hỏi dân vùng này thì chắc chắn họ sẽ thề độc trên
cuốn Thánh Kinh mà nói quả quyết rằng ông ấy đi lang thang. Người thì
bảo gặp ông ta đi gần nhà thờ, người thì nói ông ấy ở rừng cỏ, thậm chí ở
ngay trong nhà này nữa. Toàn là những chuyện phi lý. Ông Lộc, chắc ông
nghĩ thế, tôi cũng vậy. Thế nhưng cái lão già ngồi bên bếp lửa kia đã quả
quyết rằng từ khi ông Hy chết đêm mưa nào lão cũng thấy có hai người từ
cửa sổ phòng ông ta nhìn ra... Còn tôi thì tôi đã gặp một chuyện lạ cách đây
chừng một tháng.
Chả là một buổi tối tôi sang Họa Mi Trang. Trời tối đen, sấm chớp ầm ầm.
Đúng ngay ở khúc quẹo trên Đỉnh Gió Hú tôi gặp một thằng bé chăn chiên
đang xua một con cừu mẹ và hai con cừu con đi trước. Thằng bé khóc sướt
mướt. Tôi đoán nó khóc vì mấy con cừu cứng đầu, không chịu để nó dắt đi
nên hỏi nó:
“Có chuyện gì đó, em?”
“Ông Hy và một người đàn bà. Kia kìa, dưới mỏm đá nhọn ấy. Cháu không
dám đi qua mặt họ."
Nó vừa nói vừa nức nở khóc. Tôi không thấy gì hết, nhưng cả thằng bé lẫn
đàn cừu đều không dám tiến lên. Tôi phải bảo nó đi vòng xuống mé dưới.
Tôi nghĩ là có thể là khi đi qua cánh đồng hoang nó liên tưởng đến những
chuyện tầm bậy tầm bạ do cha mẹ hay bè bạn kể lại, rồi nó tưởng tượng ra
chứ làm gì có ma quỷ.