“Hầu hết những kẻ bắt nạt khi bị ngăn cản đều trở nên hèn nhát”
Ngay từ đầu năm 1900, Bộ Hải quân Anh đã nhận ra Đức chỉ cần vài năm
nữa là có thể vượt Nga để trở thành quyền lực hải quân lớn thứ ba thế giới
sau Anh và Pháp. Bộ cũng hiểu điều này có nghĩa là London sẽ phải xem xét
lại Tiêu chuẩn Song cường và duy trì một hạm đội đối trọng tại Biển Bắc
.
Năm 1902, trích dẫn Đạo Luật Hải quân năm 1900 của Đức, Bộ trưởng
Bộ Hải quân Anh đã nói với nội các: “Tôi có thể chắc chắn rằng quá trình
xây dựng lực lượng hải quân mới và mạnh mẽ của Đức là nhằm tiến hành
chiến tranh với chúng ta.” Cùng năm đó, người đứng đầu cơ quan tình báo
hải quân đã kết luận nước Anh “sẽ phải chiến đấu để giành quyền kiểm soát
khu vực Biển Bắc, như những gì đã làm trong các cuộc chiến tranh với
người Hà Lan hồi thế kỷ XVII”. Mặc dù một số nhân vật ở cả Anh và Đức
đều có thời điểm chấp nhận lời biện minh của Tirpitz rằng hạm đội Đức là
cần thiết để bảo vệ hoạt động thương mại của nước này, tuy nhiên lý do ấy
không tồn tại được lâu. Như Paul Kennedy đã lưu ý, khi thực tế hiện rõ và
London nhận ra mục tiêu thực tế của hạm đội Đức chính là nước Anh, “tác
động lên mối quan hệ Anh - Đức trở thành thảm họa và không thể nào điều
hòa được”
Tình trạng xấu đi của mối quan hệ Anh - Đức xảy ra đồng thời với quá
trình dịch chuyển quyền lực diễn biến nhanh chóng ở cả bên trong lẫn bên
ngoài châu Âu, và với quá trình đánh giá lại chính sách của Anh trên toàn
cầu. Trước một loạt các cường quốc mới nổi, Anh dần nhận ra mình không
thể duy trì ưu thế về hải quân ở khắp mọi nơi như trước đây. Các hạm đội
của Mỹ, Nhật Bản, Nga và nhiều quốc gia khác đang phát triển, nhưng quá
trình xây dựng hải quân của Đức thì lại diễn ra cách nước Anh chỉ vài trăm
hải lý
. Bộ Hải quân đã ngầm công nhận sự thống trị về mặt hải quân của
Mỹ tại Tây Bán cầu và vào năm 1902, nước Anh đã kết thúc quãng thời gian
“tự cô lập đầy kiêu ngạo” của mình bằng việc ký kết liên minh phòng thủ
với Nhật Bản, nhằm giảm bớt áp lực lên Hải quân Hoàng gia tại vùng Viễn
Đông.