cầu và mở đường cho thương mại tiến sâu hơn. Trong tám vòng đàm phán
của GATT từ năm 1948 đến năm 1995, thuế quan trung bình ở các nước
công nghiệp giảm từ 40% xuống 4%. Đây là mức cắt giảm “thuế” đáng kể
cho tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu. Nó cũng buộc các nhà sản xuất
trong nước phải tung ra những hàng hóa rẻ hơn và tốt hơn để có thể đứng
vững trong cạnh tranh. Nếu ngày hôm nay, bạn bước vào một cửa hàng ô
tô, bạn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với năm 1970 vì hai lý do: Thứ nhất, bạn
có thể lựa chọn nhiều xe nhập khẩu với chất lượng tốt hơn; Thứ hai, Detroit
cũng phản ứng bằng cách sản xuất những chiếc xe tốt hơn. Honda Accord
khiến bạn giàu có hơn và cả Ford Taurus cũng tốt hơn so với trước kia.
Các nước nghèo cũng được hưởng lợi từ thương mại. Nếu chúng ta
kiên nhẫn giải thích những lợi ích của thương mại cho những người chống
đối ở Seattle, Washington, Davos, hay Genoa, thì có lẽ họ sẽ đặt những ly
cocktail Molotov của mình xuống. Được rồi, có thể là họ sẽ không làm thế.
Những người phản đối phe chống toàn cầu hóa lập luận rằng thương mại
thế giới là do những nước giàu áp đặt lên những nước đang phát triển. Nếu
thương mại tốt cho Mỹ, thì nó hẳn phải không tốt cho một nơi nào khác.